Viên đạn thứ nhất găm chính giữa trán Ông Trùm. Viên thứ hai xé toang cổ họng lão. Mãu lão phun ra khắp vỉa hè, rải những giọt hồng lên ánh nắng vàng.
Cùng lúc đó Franky, vẫn đứng trên hè phố, bắn một loạt đạn dài từ khẩu Uzi của gã qua đầu đám đông.
Sau đó cả hai nhảy lên xe và Heskow rú ga lao đi. Vài phút sau chúng đã phóng qua đường hầm để tới một sân bay nhỏ, ở đó một máy bay phản lực của tư nhân đang chờ đưa chúng ra nước ngoài.
Khi tiếng súng thứ nhất vang lên, Valerious xô vợ con xuống đất và lấy thân mình che cho họ. Đúng là gã không biết chuyện gì đang xảy ra. Nicole cũng vậy. Nàng kinh hãi nhìn cha. Marcantonio nhìn xuống mà không thể nào tin được. Thực tế này khác hẳn với những hư cấu cho sàn diễn trong những thảm kịch trên TV của gã. Phát đạn bắng vào trán cha gã đã bửa đôi đầu lão như bửa một quả dưa đến nỗi có thẻ thấy óc và máu sóng sánh bên trong. Phát đạn bắn vào cổ lão thì cắt phăng ra một tảng thịt lởm chởm đến nỗi nom lão cứ như thể bị chém bởi một con dao hàng thịt. Và cơ man nào là máu trên vỉa hè quanh xác lão. Nhiều máu hơn người ta có thể tưởng tượng trong cơ thể một con người. Marcantonio nhìn thấy hai gã đàn ông đeo mặt nạ, thấy cả súng trên tay chúng, song gã như bị tê liệt vì cú sốc. Thậm chí còn không thể nói được chúng là da đen hay da trắng, cởi truồng hay mặc quần áo đàng hoàng. Chúng hẳn phải cao đến mười bộ chứ chẳng chơi.
Trái lại, Astorre đã cảnh giác ngay khi chiếc xe du lịch màu đen dừng lại. Chàng thấy Stace khai hỏa và cho rằng gã bóp cò bằng tay trái. Chàng cũng thấy Franky khai hỏa khẩu Uzi và gã này rõ ràng thuận tay trái. Chàng nhớ đã thoáng thấy gã lái xe, một kẻ có cái đầu trông nặng nề. Hai tay súng di chuyển với vẻ lẹ làng của những vận động viên được huấn luyện tốt. Lúc nhảy xuống vỉa hè, chàng đã vươn tay để kéo Trùm Aprile nằm xuống với chàng nhưng chàng chậm chưa đầy một giây. Và bây giờ người chàng đẫm máu lão.
Sau đó chàng thấy bọn trẻ di chuyển như một cơn lốc kinh hoàng, tâm cơn lốc là một dấu chấm đỏ to tướng. Bọn trẻ đang gào thét. Chàng thấy Aprile nằm vắt trên thềm như thể cái chết đã rút đi bộ xương của lão. Và chàng cảm thấy hãi hùng về tất cả những gì có thể đến với chàng, đến với những người chàng yêu thương nhất.
Nicole bước tới đứng bên xác cha. Gối nàng khuỵu xuống trái với ý muốn của nàng. Và nàng quỳ bên cha. Trong im lặng nàng đưa tay chạm vào cái cổ đẫm máu của cha. Rồi nàng khóc, tựa hồ nàng sẽ khóc như thế này mãi mãi.
(1) Pro bono: làm dịch vụ chuyên môn thuần túy (không phục vụ mục đích từ thiện hay lợi ích công cộng) Vụ ám sát Don Raymonde Aprile đã làm rung động cả thế giới ngầm. Kẻ nào dám xuống tay hạ một Ông Trùm như lão và động cơ nào thúc đẩy chúng làm việc đó? Hay chúng bị ai sai khiến? Hoặc ai thuê? Lão đã phân phát hầu hết đế chế của mình thì còn gì mà kiếm chác? Chết đi, lão không còn cơ hội để ban phát những món quà hẫu hĩ cũng như sử dụng ảnh hưởng của mình để giúp những người ai cần đương đầu với pháp luật và số phận.
Phải chăng đây là một cuộc báo thù đã từng bị trì hoãn? Liệu bí mật này sẽ có ngày bị phơi bày ra ánh sáng? Đương nhiên cũng có thể dính dáng đến đàn bà, nhưng ba mươi năm nay lão vẫn sống vò võ một mình, không ai thấy lão cặp kè với bông hoa nào hết. Lão cũng đâu phải loại người ham sắc. Con cái lão không ai bị nghi ngờ. Đây là một cú chuyên nghiệp, mà họ thì không tiếp xúc với bọn này.
Cho nên việc giết lão không những bí ẩn mà còn là báng bổ. Một kẻ đã gây ra bao nỗi kinh hoàng, đã trở nên vô hại với pháp luật và đồng bọn, vẫn sống nhăn khi cai quản cả một đế chế tội ác rộng lớn hơn ba mươi năm, tại sao lại có thể bị giết như thế này? Và thật nực cười, khi đã hoàn lương, đã đặt mình dưới sự che chở của pháp luật, lão lại chỉ sống được có ba năm ngắn ngủi.
Còn lạ lùng hơn khi cái chết của lão lại rơi vào im lặng. Giới truyền thông không lên tiếng, cảnh sát kín như bưng còn FBI từ chối điều tra vì coi đó là vấn đề của địa phương hoặc tệ hơn, của băng nhóm. Có vẻ như danh tiếng và quyền lực của Trùm Aprile đã tiêu tan chỉ trong ba năm giải nghệ.
Thế giới ngầm cũng tỏ ra không mấy quan tâm, không có vụ thanh toán nào vì thù hận. Tất cả bạn bè và chiến hữu trung thành của Ông Trùm Aprile dường như đã quên lão. Ngay cả con cái lão xem ra cũng muốn gác vụ này lại và chấp nhận số phận của cha mình.
Không ai quan tâm – Không ai, trừ Kurt Cilke.
Kurt Cilke, đại diện FBI tại New York, quyết định nhúng tay vào vụ này mặc dù đây là một vụ hình sự có tính địa phương dành cho NYPD(1). Ông quyết định lấy lời khai của gia đình nạn nhân.
Một tháng sau đám tang của Ông Trùm Aprle, Cilke cùng cấp phó của mình, Bill Boxton, gọi điện cho Marcantonio Aprile. Họ phải thận trọng vì Marcantonio là người lãnh đạo bộ phận lên chương trình của đài truyền hình và có nhiều ảnh hưởng ở Washington. Một cú điện thoại lịch sự đã thu xếp một cuộc gặp qua cô thư ký của gã.
Marcantonio tiếp họ trong văn phòng riêng của mình tại Trung tâm truyền hình. Gã nhã nhặn chào họ, mời họ cà phê nhưng cả hai từ chối. Gã là một người cao ráo, đẹp trai, nước da màu kem Ô liu, mặc bộ vét đen, thắt cà vạt màu hồng đỏ kỳ lạ do một nhà tạo mẫu có tiếng trong giới truyền thông sản xuất. Cilke lên tiếng
- Chúng tôi đang điều tra về cái chết của cha anh. Anh có nghĩ ai có thể gây ra vụ này không?
- Tôi thực sự không biết, Marcantonio mỉm cười nói. Cha tôi bắt tất cả con cháu đứng ngoài cuộc. Chúng tôi lớn lên hoàn toàn xa rời công việc làm ăn của ông. Gã đưa tay làm một cử chỉ xin lỗi.
Cilke không thích cử chỉ đó.
- Anh nghĩ cái gì có thể là nguyên nhân? Ông hỏi.
- Các ngài đã biết quá khứ của cha tôi. Marcantonio nói một cách nghiêm túc, Ông không muốn con cái dính dáng vào công việc của mình. Chúng tôi được đi học để tìm một chỗ đứng cho mình trong xã hội. Ông không khi nào đến nhà chúng tôi ăn tối. Ông chỉ đến dự lễ tốt nghiệp của chúng tôi; vậy đấy. Và đương nhiên, khi hiểu ra, chúng tôi vô cùng biết ơn. Cilke hỏi:
- Anh thăng tiến vùn vụt. Ông có giúp anh chút nào không?
Lần đầu tiên Marcantonio bớt đi vẻ nhã nhặn.
- Không khi nào. Trong nghề nghiệp của tôi, việc những người trẻ tuổi thăng tiến nhanh chóng không có gì bất bình thường cả. Cha tôi gửi tôi đến học ở những trường tốt nhất và cho tôi khá nhiều tiền trợ cấp. Tôi đã dùng số tiền đó để phát triển khả năng kịch nghệ, và tôi đã có những lựa chọn đúng.
- Và cha anh hài lòng chứ? Cilke hỏi. Ông đang quan sát Marcantonio, cố gắng đọc từng biểu hiện trên mặt gã.
- Tôi không nghĩ ông thực sự hiểu rõ những gì tôi đang làm, tuy nhiên ông hài lòng, Marcantonio giễu cợt đáp.
- Anh biết không, tôi đã theo dõi cha anh suốt hai mươi năm nhưng chưa lần nào bắt được ông ấy. Thật là một con người khôn ngoan.
- Chúng tôi cũng không thể làm việc đó, Marcantonio nói. Anh tôi, em gái tôi và tôi.
Cilke vừa hỏi vừa cười, Anh không cảm thấy sự báo thù của người Sicile đấy chứ? Anh có nghĩ đến một cái gì đại loại như vậy không?
- Hoàn toàn không, Marcantonio nói. Cha tôi nuôi dạy chúng tôi khôn lớn không để làm chuyện đó. Tôi hy vọng các ngài sẽ bắt được hung thủ.
- Thế còn di chúc? Cilke hỏi. Cha anh là một người giàu có.
- Các ngài phải hỏi em gái tôi chuyện đó. Nó là luật sư mà, Marcantonio trả lời.
- Nhưng anh biết trong di chúc có gì chứ ?
- Chắc thế, Marcantonio nói. Giọng gã đanh lại.
Boxton chen vào, Anh không nghĩ rằng có kẻ nào đó muốn hại cụ nhà hay sao?
- Không. Nếu có một cái tên, tôi sẽ báo ngay cho các ngài.
- Ok, Cilke nói. Tôi để lại cho anh danh thiếp. Phòng xa mà.
Trước khi đi gặp hai người con khác của Aprile, Cilke quyết định gọi điện cho thanh tra cảnh sát thành phố. Vì không muốn bị ghi âm, ông mời Paul Di Benedetto tới một trong những nhà hàng Ý đẹp nhất khu East Side. Di Benedetto rất khoái ăn nhậu miễn là y không phải chi tiền túi.
Hai người thường phải giải quyết công việc cùng nhau nhiều năm qua và Cilke rất thích giao du với y. Lúc này ông đang quan sát Paul nếm thử các món.
- Thế đấy, Di Benedetto nói. Cánh điều tra Liên bang chẳng mấy khi được xơi một bữa ngon lành như thế này. Cậu muốn cái quái gì hả?
Cilke nói: một bữa ăn thịnh soạn. Đúng không?
Di Benedetto nhún đôi vai bự như chuyển động của một con sóng. Sau đó y mỉm cười hơi pha chút ác ý. Khuôn mặt y biến thành một nhân vật được yêu thích nào đó của Disney.
- Kurt, y nói. Chỗ này toàn cứt. Nó được lũ khốn ngoài vũ trụ điều hành.
Thật đấy, chúng nấu đồ ăn nom giống kiểu Italy, chúng làm nó có mùi Italy, thế nhưng nó lại có cái vị chết tiệt thế này. Đúng là bọn ngoài hành tinh. Tớ nói cho cậu biết.
Cilke phá lên cười.
- Này, nhưng rượu cũng ngon đấy chứ?
- Với tớ, chúng có mùi thuốc trị bệnh, trừ loại guine đỏ pha lẫn soda.
- Cậu quả là người khó chiều, Cilke nói.
- Không tớ rất dễ tính. Lúc nào cũng thế.
Cilke thở dài. Mất toi hai trăm đô để đổi lấy một bãi phân.
- Ồ không, Di Benedetto đáp. Tớ đánh giá cao nghĩa cử mà.
Cilke gọi cà phê đặc cho cả hai. Ông nói
- Tớ đang điều tra vụ Trùm Aprile. Nó là của cậu, Paul ạ. Bọn tớ đã quan tâm đến lão nhiều năm mà chẳng nước non gì. Lão về hưu, sống đường hoàng, lão chẳng còn gì khiến kẻ khác thèm muốn. Vậy tại sao lão bị giết? Một việc rất nguy hiểm đối với bất kỳ kẻ nào nhúng tay vào.
- Rất chuyên nghiệp, Di Benedetto nói. Một thành tích xuất sắc.
- Vậy sao?
- Thật chẳng khôn ngoan chút nào, Di Benedetto nói. Cậu đã xóa sạch phần lớn các yếu nhân của Mafia, một việc làm cũng đáng giá đấy. Tớ xin bái phục. Có lẽ cậu còn buộc lão già đó phải về hưu. Vì thế những kẻ khôn ngoan vẫn còn chưa bị tóm không có lý do gì để nốc ao lão.
- Thế còn những nhà băng của lão? Cilke hỏi
Di Benedetto vung vẩy điếu xì gà.
- Đó là việc của cậu. Bọn tớ chỉ chạy theo đám cặn bã thôi.
- Thế còn gia đình lão ? Cilke gặng. Ma túy, đàn bà, thôi thì mọi thứ ?
- Hoàn toàn không. Những công dân thượng lưu với những nghề nghiệp cao quý. Cùng một tay lão Trùm sắp đặt cả. Lão muốn con cái mình là những người hoàn toàn ngay thẳng. Y dừng lại và làm bộ nghiêm trọng. Ở đây phải có nguyên nhân. Phải có kẻ nào đó được lợi. Đấy là cái chúng tớ đang tìm.
- Còn di chúc của lão ?
- Ngày mai con gái lão sẽ nộp. Tớ yêu cầu mà. Cô ta bảo tớ phải chờ.
- Và cậu vẫn chờ chứ ? Cilke hỏi.
- Ừ, Di Benedetto nói. Cô ta là một luật sư thượng hạng, có nhiều ảnh hưởng và hãng luật của cô ta là một lực lượng chính trị. Làm sao tớ có thể cứng rắn với cô ta được ? Tớ chỉ còn cách phục tùng thôi.
- Có thể tớ sẽ làm tốt hơn. Cilke nói.
- Tớ chắc vậy.
Kurt Cilke biết phó thanh tra cảnh sát, Aspinella Washington, hơn mười năm nay. Mụ cao sáu bộ, là người Mỹ gốc Phi có mái tóc cắt ngắn và những đường nét đẹp như tạc. Mụ là nỗi khiếp sợ của thuộc cấp và đám tội phạm rơi vào tay mụ. Một cách cố ý, mụ hay làm mếch lòng mọi người, và mụ chẳng ưa gì Cilke cũng như FBI.
Mụ đón Cilke tại cơ quan với câu hỏi
- Kurt, anh đến đây mời tôi đi ăn cỗ phải không ?
Cilke cười
- Không, Aspinella. Tôi đến tìm thông tin.
- Rõ rồi, mụ nói. Miễn phí chứ ? Hay sau khi anh trả cho thành phố năm triệu đô la ?
Mụ mặc áo khoác bằng vải thường và quần màu nâu vàng. Dưới áo khoác của mụ anh nhìn thấy một bao súng ngắn. Tay phải mụ đeo một chiếc nhẫn kim cương xem ra có thể cắt được lớp da chẳng kém gì một lưỡi dao cạo.
Mụ vẫn còn ác cảm với Cilke vì FBI đã có lần làm rõ một vụ lạm dụng vũ lực chống lại các điều tra viên của mụ và trên cơ sở quyền công dân, nạn nhân đã thắng kiện, hai điều tra viên của mụ phải ra tòa. Nạn nhân, một kẻ giàu có, là một tên ma cô và bán rong ma túy. Chính Aspinella đã có lần nện y một trận nhừ tử. Mặc dù được đề bạt làm phó sếp để xoa dịu người Mỹ da đen, nhưng Aspinella lại tỏ ra cứng rắn với đám tội phạm da đen hơn đám tội phạm da trắng.
- Ngừng đánh những người vô tội, Cilke nói. Tôi cũng sẽ dừng lại.
- Tôi chưa bao giờ chụp mũ những người không có tội cả, mụ nói và cười toe toét.
- Tôi đang tìm kẻ giết Trùm Aprile, Cilke nói.
- Đấy có phải việc của anh đâu ? Đây là một vụ đụng độ của các băng nhóm địa phương. Chó chết. Hay anh đang làm một vụ quyền công dân khác đấy ?
- Ừ, nó có thể liên quan đến tiền bạc và ma túy, Cilke nói.
- Làm sao anh biết được ?
- Chúng tôi có chỉ điểm chứ sao.
Bất thình lình Aspinella lên cơn thịnh nộ.
- Anh và cả cái đám FBI chó chết tới đây để lấy thông tin mà chẳng chịu chìa cho tôi cái gì cả. Các anh không đàng hoàng như cớm. Các anh chỉ lượn lờ quanh việc bắt giữ mấy thằng trí thức. Các anh chẳng bao giờ đụng vào những việc bẩn thỉu. Các anh đéo biết đó là cái gì. Xéo khỏi đây ngay.
Cilke hài lòng với hai cuộc phỏng vấn. Kết quả đã rõ ràng. Cả Di Benedetto và Aspinella sẽ phải vào nhà đá trong vụ Trùm Aprile. Họ sẽ không hợp tác với FBI. Họ sẽ chỉ làm chiếu lệ. Tóm lại, họ đã bị hối lộ.
Ở đây, một nguyên nhân giải thích cho niềm tin của ông. Ông biết việc buôn bán ma túy chỉ có thể tồn tại nếu các nhân viên cảnh sát bị mua chuộc, và ông có lời bảo đảm, không được tốt lắm trước tòa, rằng Di Benedetto và Aspinella có tên trong danh sách trả lương của bọn buôn ma túy.
Trước khi gặp Nicole, Cilke quyết định tận dụng cơ hội với người con cả của lão, Valerious Aprile. Thế là ông và Boxton phải lên West Point, nơi Valerious - một đại tá quân đội Mỹ - dạy chiến thuật quân sự - hay một môn quỷ quái nào đấy, Cilke nghĩ vậy.
Valerious tiếp họ trong một căn phòng rộng nhìn xuống sân duỵêt binh, nơi các học viên sĩ quan đang tập đi đều. Gã không được nhã nhặn như đứa em trai. Cilke hỏi liệu gã có biết về các kẻ thù của cha mình không.
- Không, gã nói. Tôi phục vụ ở nước ngoài suốt gần hai mươi năm qua. Tôi chỉ về nhà khi có thể. Cha tôi tin rằng tôi sẽ leo lên đến hàng cấp tướng. Ông muốn thấy tôi đeo ngôi sao đó. Thậm chí lon thiếu tướng cũng làm ông vui rồi.
- Thế thì ông nhà yêu nước quá còn gì ? Cilke hỏi.
- Ông yêu đất nước này. Valerious đáp cộc lốc.
- Ông cho ngài cơ hội được làm học viên sĩ quan phải không ? Cilke thúc ép.
- Tôi nghĩ vậy. Valerious nói. Nhưng ông không thể làm cho tôi thành một viên tướng. Tôi đoán ông không có ảnh hưởng ở Lầu Năm góc, hoặc ở một mức độ nào đó, tôi không đủ tiêu chuẩn. Dù sao tôi cũng thích nó. Tôi có cơ hội của mình.
- Ngài không thể cho chúng tôi một đầu mối dẫn đến bất kỳ kẻ thù nào của ông nhà ư? Cilke hỏi.
- Không, ông không hề có kẻ thù. Valerious đáp. Cha tôi lẽ ra có thể trở thành một vị tướng tài. Khi về hưu, ông đã che giấu được mọi thứ. Sức mạnh của ông khi được sử dụng luôn luôn nhằm mục đích ngăn chặn. ông có lực lượng và tiền bạc.
- Ngài có vẻ chẳng mấy quan tâm xem ai đã giết cha ngài. Không có ý định trả thù chứ?
- Không nhiều hơn so với một đồng sự ngã xuống trong chiến đấu, Valerious nói. Tất nhiên tôi rất muốn không một ai phải nhìn thấy cha mình bị giết.
- Ngài có biết gì về bản di chúc của ông nhà không?
- Ngài phải hỏi em gái tối, Valerious trả lời.
Cuối chiều hôm đó. Cilke và Boxton có mặt ở văn phòng của Nicole Aprile, và tại đây họ được đón tiếp khác hẳn. Chỉ có thể đến được phòng làm việc của Nicole bằng cách đi qua ba lớp rào thư ký và một nữ vệ sẽ trông có vẻ thừa sức đẩy cả Cilke và Boxton văng ra trong vòng hai giấy. Nhìn cách di chuyển có thể nói rằng công ta đã tập luyện một cách công phu và bài bản. Các cơ bắp của cô hằn lên qua lớp quần áo. Bộ ngực được nịt chặt, cô mặc áo khoác bằng lanh trùm ra bên ngoài áo len cổ lọ và chiếc quần màu đen.
Nicole chào đón khách không được nồng nhiệt lắm. Trông nàng rất hấp dẫn trong bộ vét hợp thời trang màu tím đậm. Nàng đeo đôi khuyên tai rất to bằng vàng, còn mái tóc đen của nàng vừa mượt vừa dài. Nét mặt nàng đẹp và cứng rắn được biểu lộ bởi đôi mắt to màu nâu dịu.
- Thưa các ngài, tôi chỉ cho các ngài hai mươi phút thôi, nàng nói. Nàng mặc chiếc áo cánh có riềm xếp bên trong áo khoác tím. Hai ống tay áo che kín cả bàn tay nàng trong khi nàng chìa một tay ra cầm chiếc thẻ của Cilke. Nàng xem một cách cẩn thận rồi nói:
- Đại diện đặc biệt à? Cấp bậc khá cao cho một yêu cầu thường ngày thế này.
Nàng nói bằng một chất giọng quá quen thuộc với Cilke, giọng nói này thường làm ông bực mình. Đó là giọng trách mắng nhẹ nhàng của các công tố viên Liên bang khi đang giải quyết các vấn đề điều tra mà họ phụ trách.
- Cha cô là một người rất quan trọng, thưa cô. Cilke nói.
- Vâng, cho đến khi ông về hưu và đặt mình dưới sự che chở của pháp luật. Nicole cay đắng nói.
- Điều đó càng làm cho việc giết ông nhà bí hiểm hơn, Cilke nói. Chúng tôi hy vọng cô có thể cho chúng tôi một số ý niệm về những kẻ có thái độ hằn học với ông nhà.
- Không đến nỗi bí hiểm đến thế, Nicole nói. Ngài biết cuộc sống của cha tôi rõ hơn tôi nhiều. Ông có không ít kẻ thù, trong đó có cả ngài nữa đấy.
- Ngay cả những người chỉ trích chúng tôi tệ hại nhất cũng không buộc FBI dính vào vụ án mạng bên thềm nhà thờ. Cilke nói khô khốc. Mà tôi cũng chẳng phải là kẻ thù của ông ấy. Tôi chỉ là người thừa hành pháp luật. Sau khi nghỉ hưu ông không còn kẻ thù. Ông đã đấm mõm bọn chúng. Cilke dừng lại một lát. Tôi thấy khó hiểu là cả cô và các anh cô hình như đều không muốn tìm ra kẻ đã giết cha mình.
- Vì chúng tôi không phải là những kẻ đạo đức giả, Nicole vặc lại. Cha tôi không là một vị thánh. Ông tham gia cuộc chơi và đã trả giá. Nàng dừng lại. Và ngài đã nhầm khi cho rằng tôi không quan tâm. Thực tế là tôi sẽ kiến nghị lấy hồ sơ của FBI về cha tôi theo luật tự do thông tin. Tôi hy vọng ngài sẽ không gây trở ngại, vì nếu thế chúng ta sẽ là kẻ thù của nhau đấy.
- Đấy là quyền của cô, Cilke nói. Nhưng biết đâu cô có thể giúp tôi bằng cách cho tôi biết những điều khoản trong di chúc của ông.
- Tôi có thảo di chúc đầu, Nicole nói.
- Nhưng tôi nghe nói cô là luật sư. Lúc này cô hẳn phải biết các điều khoản của nó rồi.
- Chúng tôi sẽ đệ trình xin chứng thực vào ngày mai. Nó sẽ là hồ sơ công dân.
- Còn gì giúp được chúng tôi mà cô có thể nói bây giờ không ? Cilke hỏi.
- Chỉ còn việc tôi sẽ không về hưu sớm nữa thôi.
- Sao hôm nay cô không nói gì với tôi hả ?
- Vì tôi không có nghĩa vụ phải làm như vậy, Nicole lạnh lùng đáp.
- Tôi biết cha cô khá rõ, Cilke nói. Lẽ ra ông ấy phải chừng mực hơn.
Lần đầu tiên nàng nhìn ông bằng ánh mắt tôn trọng.
- Đúng thế, nàng nói. OK. cha tôi đã phân phát rất nhiều tiền trước khi chết. Tất cả những gì ông để lại cho chúng tôi là các nhà băng. Tôi và hai anh thừa hưởng bốn mươi chính phần trăm, năm mốt phần trăm còn lại sẽ thuộc về một người bà con, Artorre Viola.
- Cô có thể cho tôi biết đôi điều về anh ta không ? Cilke hỏi.
- Astorre ít tuổi hơn tôi. Anh ấy chưa bao giờ dính dáng vào chuyện làm ăn của cha tôi cả, và tất cả chúng tôi đều yêu quý anh vì đấy là một anh chàng dễ thương. Tất nhiên bây giờ tôi không còn yêu anh ấy nhiều như trước kia.
Cilke lục tìm trong ký ức. Ông không thể nhớ hồ sơ về Artorre Viola nhưng nhất định nó phải nằm đâu đó.