80s toys - Atari. I still have
Không bấm vùng phía trên kẻo mất tiền nhé!

Teabing nhìn bảng kẻ bằng tay của cô và cười khúc khích:

"Cô đã đúng. Rất vui được thấy là các chàng trai ở Holloway làm tốt công việc của họ".

Nhìn vào ma trận thay thế của Sophie, Langdon cảm thấy một nỗi rộn ràng mỗi lúc một tăng mà ông nghĩ có thể sánh với nỗi rộn ràng của các nhà học giả khi lần đầu tiên họ đùng mật mã Atbash để giải mã Bí mật Sheshach, một bí mật giờ đây đã trở nên nổi tiếng. Suốt nhiều năm, các học giả về tôn giáo đã bối rối khó hiểu những chỗ trong Kinh Thánh quy chiếu đến một thành phố mang tên Sheshach. Thành phố này không xuất hiện trên bất cứ bản đồ nào hay bất cứ tài liệu nào nhưng lại được đề cập đến trong Sách của Jememiah - vị vua của Sheshach, thành phố Sheshach, nhân dân Shesbach. Cuối cùng, một học giả đã áp dụng mật mã Atbash vào từ này, và kết quả công việc của ông làm mọi người ngớ ra. Mật mã tiết lộ rằng Sheshach trên thực tế là một từ mã hóa cho một thành phố rất nổi tiếng khác. Quá trình rất đơn giản.

Sheshach, trong tiếng Hebrew được phát âm là: Sh - Sh - K

Sh - Sh - K khi được thay thế trong ma trận trở thành B - B - L

B - B - L, trong ngôn ngữ Hebrew, phát âm là Babel

Thành phố bí ẩn Sheshach được tiết lộ là thành phố Babel, và tiếp đó một phong trào rộ lên như điên: xem xét lại Kinh Thánh. Trong vòng nhiều tuần, nhiều từ mật mã Atbash đã được phát hiện trong Kinh Cựu ước, phơi bày vô số ý nghĩa ẩn giấu mà các học giả cũng không biết là có ở đó.

"Chúng ta ang đến gần", Langdon thì thầm, không thể kiểm soát niềm phấn khích của mình.

"Vài phân nữa, Robert ạ", Teabing nói. Ông ngước nhìn Sophie và cười. "Cô sẵn sàng chưa?".

Cô gật đầu.

Được rồi, Baphomet trong ngôn ngữ Hebrew không nguyên âm viết là: B - P - V - M - Th. Bây giờ chúng ta chỉ cần đối chiếu với ma trận thay thế Atbash để dịch những bí từ này sang mật khẩu năm chữ của chúng ta".

Tim Langdon đập thình thịch: B - P - V - M - Th. Ánh mặt trời đang tràn qua cửa sổ. Ông nhìn vào bảng ma trận đối chiếu của Sophie và chậm rãi thay thế. B là Sh. P là V…

Teabing cười toe toét như một cậu học sinh trong mùa Giáng sinh: "Và mật mã Atbash hé lộ…". Ông dừng lại một lát, "Chúa ơi!". Gương mặt ông trắng bệch đi.

Langdon ngẩng phắt đầu lên.

"Có chuyện gì không ổn?" Sophie hỏi.

"Cô không tin được đâu", Teabing đưa mắt nhìn Sophie, "đặc biệt với cô".

"Ông định nói gì?". Cô nói.

"Điều này… thật là tài tình", ông thì thầm: "Cực kỳ tài tình!".

Teabing viết lại trên giấy. "Nổi trống lên! Đây là mật khẩu của quý vị,, ông giơ cho họ thấy cái ông đã viết.

Sh - V - P - Y - A

Sophie cau mặt: "Nó là cái gì?".

Langdon cũng không nhận ra.

Gịong Teabing như run lên vì kính sợ: "Bạn ạ, đây thực sự là một từ thông thái cổ xưa!".

Langdon đọc lại những chữ đó. Một từ thông thái cổ giải thoát cuộn giấy này. Lát sau, ông hiểu ra. Ông đã không thấy điều này tới. Một từ thông thái cổ!".

Teabing cười: "Theo nghĩa đen!".

Sophie nhìn từ này và sau đó nhìn đĩa chứ. Ngay lập tức, cô nhận ra là Langdon và Teabing đã không thấy một trục trặc nghiêm trọng: "Khoan! Đây không thể là mật khẩu", cô cãi.

Hộp mật mã không có Sh trên đĩa chữ. Nó dùng bảng chữ cái La Mã truyền thống".

"Đọc từ này lên", Langdon giục. "Hãy nhớ hai điều. Trong ngôn ngữ Hebrew, kí tự cho âm Sh cũng có thể được phát âm như S, phụ thuộc vào trọng âm. Cũng như chữ cái P có thể đọc là F".

SVFYA? Cô nghĩ, bối rối.

"Thiên tài!". Teabing chêm vào. "Chữ cái V thường thay thế cho nguyên âm O!".

Sophie lại nhìn vào các chữ cái, cố đọc lên thành âm chuẩn.

"S… o… f… y… a".

Cô nghe thấy chính tiếng mình, và không thể tin vào cái mình vừa thốt ra. "Sophia? Chữ này phát âm như Sophia?".

Langdon gật đầu: "Phải! Sophia nghĩa đen là thông thái trong tiếng Hy Lạp. Tên gốc của cô, Sophie, là một "từ thông thái".

Sophie bỗng nhớ ông mình da diết. Ông đã mã hóa viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion bằng tên của mình. Cổ họng cô nghẹn lại. Tất cả dường như rất hoàn hảo. Nhưng khi cô quay lại nhìn vào năm đĩa chữ trong hộp mật mã, cô nhận thấy vẫn còn điều gì đó không ổn. "Nhưng khoan đã… Sophia có sáu chữ cái".

Nụ cười của Teabing dường như không bao giờ tắt: "Hãy xem lại bài thơ. Ông cô đã viết "Một từ thông thái cổ".

"Nghĩa là?".

Teabing nháy mắt: "Trong tiếng Hy Lạp cổ, thông thái được viết là S-O-F-I-A".


Sophie cảm thấy một nỗi háo hức cuồng dại khi cô đặt hộp mật mã vào lòng và bắt đầu quay đĩa chữ cái. Một từ thông thái cổ giải thoát cuộn giấy này. Langdon và Teabing như ngừng thở khi họ đứng nhìn.
S…O…F
"Cẩn thận", Teabing nài nỉ, "thật cẩn thận vào!".
I…A
Sophie xoay đĩa chữ cuối cùng vào thẳng hàng: "Được rồi!". Cô thì thầm, ngước nhìn hai người kia. "Tôi sẽ kéo rời nó ra".
"Chú ý, nhớ cái lọ dấm đấy", Langdon nói, phấn khởi pha lẫn sợ hãi. "Hãy cẩn thận".
Sophie biết rằng nếu hộp mật mã này giống những hộp cô đã từng mở trong thời niên thiếu, tất cả những gì cô cần làm là nắm chặt hai đầu hình trụ, ngay mé ngoài chồng đĩa, và từ từ kéo đều tay về hai phía ngược nhau. Nếu chồng đĩa thẳng hàng đúng mật khẩu, thì một trong hai dầu sẽ trượt mở, giống như nắp một ống kính máy ảnh, và cô có thể với vào bên trong lấy cuộn tài liệu viết trên giấy papyrus, quấn quanh lọ dấm nhỏ. Tuy nhiên, nếu mật khẩu mà họ nhập không đúng, lực kéo ra của Sophie đối với hai đầu hình trụ sẽ truyền tới một đòn bẩy có lắp bản lề ở bên trong, đòn bẩy này sẽ xoay xuống lọt vào cái hốc và tạo áp lực trên chiếc lọ thủy tinh, cuối cùng làm nó vỡ tan nếu cô kéo quá mạnh.
Kéo nhẹ nhàng, cô tự nhủ.
Cả Teabing và Langdon đều cúi về phía Sophie khi cô nắm hai đầu chiếc ống hình trụ trong lòng bàn tay. trong niềm hứng khởi vì đã giải được từ mật mã, Sophie hầu như quên mất cái mà họ mong tìm thấy bên trong. Đó là viên đá đỉnh vòm của Tu viện Sion. Theo Teabing, nó chứa đựng một bản đồ chỉ dẫn tới Chén Thánh, tiết lộ ngôi mộ của Mary Maygdalene và kho báu Sangreal… kho báu tối hậu của sự thật bí mật.
Lúc này, tay nắm chặt ống trụ đá, Sophie kiểm tra lại để đảm bảo tất cả các chữ cái đều đã thẳng hàng với con trỏ. Sau đó, chậm rãi, cô kéo. Không có gì xảy ra. Cô kéo mạnh hơn. Đột nhiên, hòn đá trượt ra giống như một ống kính viễn vọng tinh xảo.
Miếng ghép ở đầu tách rời ra trong tay cô. Langdon và Teabing gần như nhảy lên. Nhịp tim của Sophie đập đồn dập khi cô đặt cái nắp lên trên bàn và nghiêng ống trụ để nhòm vào bên trong.
Một cuộn giấy!
Nhòm vào trong cuộn giấy, Sophie thấy nó được quấn quanh vật hình trụ - cái lọ dấm, cô đoán. Tuy nhiên, lạ thay, tờ giấy bọc xung quanh lọ dấm không phải là thứ giấy mỏng thông thường - papyus mà là giấy da. Thật kì lạ, cô nghĩ, dấm không thể hòa tan giấy bằng da cừu. Cô nhìn lại vào lòng cuộn giấy và nhận ra vật ở giữa cuộn giấy không phải là lọ dấm. Nó là một vật hoàn toàn khác.
"Có gì không ổn sao?", Teabing hỏi. "Kéo cuộn giấy ra đi".
Cau mày, Sophie nắm lấy cuộn giấy da và vật được gói bên trong, kéo cả hai ra khỏi ống đựng.
"Không phải giấy papyrus", Teabing nói. "Nó quá nặng".
"Tôi biết. Nó là thứ để đệm lót".
"Cho cái gì? Cho lọ dấm à?".
"Không!" Sophie mờ cuộn giấy ra, để lộ cái gì được gói bên trong. "Cho cái này".
Khi Langdon nhìn thấy vật bên trong cuộn giấy da, tim ông trĩu xuống.
"Chúa hãy giúp chúng ta?". Teabing nói. "Ông cô quả là một kiến trúc sư tàn nhẫn".
Langdon ngỡ ngàng nhìn trăn trối. Mình thấy Saunière không có ý định làm cho điều này dễ dàng.
Một cái ống trụ thứ hai được đặt trên bàn. Nhỏ hơn. Làm bằng mã não đen. Được đặt nằm gọn trong ống thứ nhất. Đam mê của Saunière đối với thuyết nhị nguyên. Hai ống trụ. Mọi thứ đều thành đôi. Nghĩa là nước đôi. Đực - cái. Đen nằm bên trong trắng.
Langdon cảm thấy mạng biểu tượng đang triển khai.
Trắng sinh ra đen.
Tất cả đàn ông đều sinh ra từ đàn bà.
Trắng - đàn bà.
Đen - đàn ông.
Với lấy cái hộp mật mã nhỏ hơn, Langdon nâng nó lên. Nó trông giống hệt cái hộp thứ nhất, ngoại trừ nó chỉ bằng một nửa về kích cỡ, có màu đen. Ông nghe thấy tiếng ùng ục quen thuộc. Có vẻ như cái lọ dấm mà họ đã nghe trước đây nằm bên trong cái ống trụ nhỏ này.
"Tốt, Robert", Teabing nói, đẩy trang giấy da về phía Langdon. "Các bạn sẽ hài lòng khi nghe thấy rằng chí ít chúng ta cũng đang bay đúng hướng".
Langdon xem xét miếng giấy da dày. Đó là bốn câu thơ khác được viết bằng một kiểu chữ hoa mĩ. Lại là thể thơ ngũ bộ iambic. Bài thơ thật bí hiểm, nhưng Langdon chỉ cần đọc câu đầu tiên cũng thấy được rằng kế hoạch của Teabing bay tới Anh là đắc sách.
Ở LONDON YÊN NGHỈ MỘT HIỆP SĨ ĐƯỢC GIÁO HOÀNG MAI TÁNG
Phần còn lại của bài thơ hàm ý rằng mật khẩu để mở cái ống trụ thứ hai có thể được tìm thấy bằng cách đến thăm ngôi mộ của hiệp sĩ này, ở đâu đó trong thành phố.
Langdon náo nức quay về phía Teabing: "Ngài có biết bài thơ này nhắc đến hiệp sĩ nào không?".
Teabing cười: "Tuyệt đối không. Nhưng tôi biết đích xác chúng ta nên tìm ở hầm mộ nào".
Vào lúc đó cách mười lăm dặm, sáu chiếc xe cảnh sát ở Kent phóng rất nhanh trên những con phố ẩm ướt mưa, hướng về phía sân bay Biggin Hill Executive.


Trung uý Collet tự rót cho mình một ly Perrier từ tủ lạnh của Teabing và sải bước qua phòng khách trở ra ngoài. Thay vì theo Fache tới London là hiện trường hành động, giờ đây anh phải làm "vú em" trông coi đội PTS đang rải ra khắp Château Villette.

Cho tới giờ, các bằng chứng họ phát hiện được không giúp ích gì cho lắm: một viên đạn găm trên sàn nhà, một tờ giấy với các biểu tượng được vẽ nguệch ngoạc kèm theo những từ lưỡi dao và thắt lưng hành xác và một dây lưng có ngạnh đẫm máu mà PTS nói với Collet rằng nó gắn liền với giáo đoàn Thiên Chúa giáo bảo thủ Opus Dei, nhóm này gần đây đã gây chấn động khi một chương trình tin tức vạch trần việc họ tuyển mộ người rất hung hãn ở Paris.

Collet thở dài. Chúc may mắn để hiểu ra được cái mớ hỗn tạp này.

Đi theo hành lang sang trọng, Collet bước vào phòng khiêu vũ rất rộng, nơi người kiểm tra chính của PTS đang bận rộn thu thập dấu vân tay. Anh ta là một người to béo mặc quần có dây đeo.

"Có gì không?", Collet bước vào hỏi.

Người kiểm tra lắc đầu: "Không có gì mới. Nhiều bộ dấu tay khớp với những dấu tìm được khắp ở phần còn lại của ngôi nhà".

"Dấu tay trên chiếc đai hành xác thì sao?".

"Interpol vẫn đang làm việc. Tôi đã nạp vào máy vi tính tất cả những thứ chúng ta tìm thấy".

Collet chỉ vào hai cái túi đựng bằng chứng đã niêm phong ở trên bàn: "Còn những thứ này thì sao?".

Người kia nhún vai: "Sức mạnh của thói quen. Tôi bỏ vào túi tất cả những gì có vẻ đặc biệt".

Collet bước lại. Đặc biệt

"Thật là một người Anh kỳ lạ", người kiểm tra nói. "Hãy nhìn cái này mà xem". Anh ta lục trong các túi đựng vật chứng và chọn ra một thứ, đưa cho Collet.

Bức ảnh thể hiện cổng chính của một thánh đường theo kiến trúc Gothic - một cổng tò vò truyền thống với những chỗ hõm, hẹp dần lại qua nhiều lớp có gờ nối tới một khung cửa nhỏ.

Collet nghiên cứu bức ảnh và hỏi lại: "Đây là thứ đặc biệt. Hãy lật lại".

Ở mặt sau tấm ảnh, Collet thấy những ghi chú nguệch ngoạc bằng tiếng Anh, mô tả gian giữa trống và dài của một nhà thờ lớn như là một sự bí mật bày tỏ lòng tôn kính đối với tử cung người đàn bà. Điều này thật lạ lùng. Tuy nhiên, lời ghi chú mô tả cửa vào của một thánh đường, mới là cái làm anh giật mình.

"Này! Ông ta nghĩ cửa vào thánh đường biểu hiện cái… của đàn bà".

Người nhân viên kiểm tra gật đầu: "Đầy đủ cả mép âm hộ lẹm vào và một cái âm vật nhỏ xinh bên trên khung cửa". Anh thở dài: "Kiểu như khêu gợi ta muốn quay trở về nhà thờ".

Collet cầm chiếc túi đựng vật chứng thứ hai lên. Qua lớp nhựa, anh có thể nhìn thấy một tấm ảnh lớn có vẻ như là tài liệu cổ. Trên đầu bức ảnh ghi:

Les Dossiers Secrets - Number 4° lm 249 (1)

Cái gì đây?". Collet hỏi.

"Tôi không biết. Ông ta có những bản sao như vậy ở khắp nhà nên tôi cho nó vào trong túi".

Collet nghiên cứu tài liệu này.

RIEURE DE SIOIU - LES NAUTONIERS/ GRAND MASTERS (2)

JEAN DE GISORS 1188-1220

MARLE DE SAINT-CLAIR 1220-1266

GUILLAUME DE GISORS 1266-1307

EDOUARD DE BAR 1307-1336

JEAN DE BAR 1336-1351

JEAN DE SAINT-CLAIR 1351-1366

BLANCE D EVREUX 1366-1398

NICOLAS FLAMEL 1398-1418

RENE D ANJOU 1418-1480

IOLANDE DE BAR 1480-1483

SANDRO BOTTICELLI 1483-1510

LEONARDO DA VINCI 1510-1519

CONNETABLE DE BOURBON 1519-1527

FERDINAND DE GONZAQUE 1527-1575

LOUIS DE NEVERS 1575-1595

ROBERT FLUID 1595-1637

J. VALENTIN ANDREA 1637-1654

ROBERT BOYLE 1654-1691

ISAAC NEWTON 1691-1727

CHARLES RADCLYFFE 1727-1746

CHARLES DE LORRAINE 1746-1780

MAXIMILIAN DE LORRAINE 1780-1801

CHARLES NODIER 1801-1844

VICTOR HUGO 1844-1885

CLAUDE DEBUSSY 1885-1914

JEAN COCTEAU 1918-1963

Prieuré de Sion? Collet phân vân.

"Trung úy?". Một nhân viên thò đầu vào. "Tổng đài có một cú điện khẩn cho đại úy Fache, nhưng họ không liên lạc được với đại uý, ông có nhận điện không?".

Collet quay trở lại nhà bếp và nhận cuộc gọi.

Đó là André Vernet.

Âm sắc tao nhã của ông chủ nhà băng không đủ để che đậy sự căng thẳng trong giọng nói của ông: "Tôi nghĩ Đại úy Fache nói là sẽ gọi điện cho tôi, nhưng tôi vẫn chưa nhận được tin tức gì từ ông ta".

"Đại úy đang bận", Collet trả lời. "Tôi có thể gỉúp gì cho ngài?".

Người ta cam đoan với tôi rằng tôi sẽ được cập nhật về diễn tiến công việc của các ông đêm nay".

Trong khoảnh khắc, Collet nghĩ anh đã nghe thấy giọng nói của người đàn ông này ở đâu đó, nhưng không xác định được cụ thể. "Ngài Vernet, tôi đang chịu trách nhiệm điều tra ở Paris.

Tôi là trung úy Collet".

Có một quãng ngưng dài trên đường dây: "Trung úy, xin lỗi, tôi có một cuộc điện thoại khác đang chờ. Tôi sẽ gọi cho ông sau". Ông ta gác máy.

Trong vài giây, Collet vẫn giữ ống nghe. Sau đó mọi thứ trở nên rõ ràng trong đầu anh. "Mình biết mình đã nhận ra giọng nói này! Phát hiện này làm anh há hốc miệng vì kinh ngạc.

Người lái chiếc xe bọc thép Với chiếc Rolex giả.

Bây giờ thì Collet mới hiểu tại sao ông chủ nhà băng lại vội vã cúp máy như vậy. Vernet đã nhớ ra cái tên trung úy Collet - người sĩ quan mà ông ta đã nói dối trắng trợn hồi đầu tối nay.

Collet ngẫm nghĩ về mối liên quan của diễn biến kì lạ này.

Vernet có dính líu. Theo bản năng, anh biết mình nên gọi cho Fache. Theo cảm tính, anh biết sự khám phá may mắn này sẽ là thời điểm để anh toả sáng.

Ngay lập tức anh gọi cho Interpol và yêu cầu tất cả những thông tin mà họ có thể tìm thấy về Nhà băng Ký thác Zurich và chủ tịch của nó, André Vernet.

Chú thích:

(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Những hồ sơ bí mật - Số 40 lm 249.

(2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Tu viện Sion - Những người cầm lái, các Đại Sư



***Xem trang:
[1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15][16][17][18][19][20]
[21][22][23][24][25][26][27][28][29][30][31][32][33][34][35][36][37][38][39][40]
[41][42][43][44][45][46][47][48][49][50][51][52]

TOP WAP WORLDWIDE


mobiV trang ch

© GIAITRI102.TK
Thanks to XTGEM