Ring ring
Không bấm vùng phía trên kẻo mất tiền nhé!

Sophie chỉ tay qua khoảng trống rộng nhường chỗ cho phần hình tròn của nhà thờ. "Chỗ này trông như một pháo đài", cô nói nhỏ.
Langdon đồng ý. Thậm chí từ đây, những bức tường trông hùng dũng lạ thường.
"Các Hiệp sĩ Templar là những chiến binh mà!" Teabing nhắc nhở tiếng nạng nhôm của ông vang trong khoảng không. "Một xã hội tôn giáo - quân sự. Nhà thờ là pháo đài và ngân hàng của họ".
"Ngân hàng?", Sophie hỏi, liếc nhìn Leigh.
"Chúa ơi, đúng vậy. Chính các Hiệp sĩ Templar đã phát minh ra khái niệm ngân hàng hiện đại. Đối với giới quý tộc châu Âu, mang vàng theo trong những chuyến đi là rất nguy hiểm, do đó các Hiệp sĩ Templar đã cho phép giới quý tộc gửi vàng vào Nhà thờ Temple gần nhất và sau đó rút vàng ra từ bất kỳ một nhà thờ nào khác của họ ở khắp châu Âu. Tất cả những gì họ cần là giấy tờ hợp lệ". Ông nháy mắt. "Và một ít tiền hoa hồng. Họ là những cái máy ATM nguyên thuỷ". Teabing chỉ về phía một cửa sổ kính mờ, nơi ánh mặt trời mới ló khúc xạ qua một chiến binh áo trắng cưỡi một con ngựa hồng: "Alanus Marcel", Teabing nói, "Ông Trùm của các Hiệp sĩ Templar vào đầu những năm 1200. Ông và những người kế vị ông ta thực tế nắm giữ chức Nghị viên vùng Primus Baro Angiae".
Langdon ngạc nhiên: "Nam tước đầu tiên của vùng này?".
Teabing gật đầu: "Ông Trùm của các Hiệp sĩ Templar, một số người khắng định, nắm giữ nhiều quyền lực hơn cả nhà vua".
Khi họ đến bên ngoài điện thờ hình tròn, Teabing liếc nhanh nhìn cậu lễ sinh đang hút bụi cách đó một quãng. "Cô biết không". Teabing nói nhỏ với Sophie, "người ta kể là có lần Chén Thánh đã từng được giữ qua đêm trong nhà thờ này khi các Hiệp sĩ Templar chuyển chỗ cất giấu nó. Cô có thể tưởng tượng được bốn cái rương tài liệu Sangreal đã được đặt ở ngay đây cùng với chiếc quan tài bằng đá của Mary Magdalene không? Nó làm tôi nổi da gà".
Langdon cũng cảm thấy sởn da gà khi họ bước vào trong căn phòng hình tròn này. Cặp mắt ông lướt theo đường lượn vòng của tường đá trắng, ngắm nhìn những phù điêu trên máng xối - ma quỷ, quái vật, những mặt người đau đớn - tất cả đều nhìn vào phía trong. Dưới những phù điêu là một hàng ghế đá cuộn quanh chu vi căn phòng.
"Rạp hát hình tròn", Langdon nói khẽ.
Teabing nhấc một chiếc nạng, chỉ về góc xa bên trái của căn phòng rồi lại sang góc xa bên phải. Langdon đã nhìn thấy.
Mười hiệp sĩ đá.
Năm ở bên trái. Năm ở bên phải.
Nằm ngửa trên sàn nhà, những hình người được tạc theo kích thước bằng người thật nghỉ ngơi trong những tư thế rất thanh thản. Những hiệp sĩ được thể hiện với đầy đủ áo giáp, khiên và kiếm, cùng những ngôi mộ khiến Langdon có cái cảm giác bất an như thể có ai đó đã lẻn vào trong khi những hiệp sĩ này đang ngủ và đổ một lớp thạch cao lên người họ vậy. Tất cả những hình người ở đây đã dầu dãi phong sương và mặc dù vậy mỗi hình đều rất riêng, độc đáo - các bộ phận áo giáp, tư thế tay chân rõ rành, nét mặt và dấu hiệu trên khiên, tất cả đều khác nhau.
Ở London yên nghỉ một hiệp sĩ được Giáo hoàng mai táng.
Langdon cảm thấy run khi bước từng bước sâu hơn vào căn phòng hình tròn.
Đây tất phải là nơi họ kiếm tìm.


Trong một con hẻm đầy rác rưới rất gần Nhà thờ Temple, Rémy Legaludec lái chiếc limousine hiệu Jaguar tới đậu sau một dãy thùng đựng rác thải công nghiệp. Tắt máy, ông ta kiểm tra xung quanh. Vắng tanh. Ông ta ra khỏi xe, bước về phía sau, và lại trèo vào khoang chính của chiếc limousine nơi đặt gã tu sĩ.
Cảm thấy sự có mặt của Rémy, gã thầy tu ở phía sau dứt ra khỏi trạng thái nửa như cầu nguyện nửa như mê, đôi mắt đỏ của hắn trông có vẻ tò mò hơn là sợ hãi. Suốt buổi tối, Rémy đã rất phục khả năng giữ bình tĩnh của con người đang bị trói gô này. Sau đôi chút kháng cự ban đầu trong chiếc xe Range Rover, gã tu sĩ có vẻ như chấp nhận cảnh ngộ và phó mặc sốphận cho quyền lực tối cao.
Nới lỏng nơ đeo cổ, Rémy mở khuy chiếc áo cổ cao, hồ bột xòe sang hai bên của mình và cảm thấy như lần đầu tiên được thở sau nhiều năm. Đi tới quầy rượu của chiếc limousine, ông ta tự rót cho mình một ly vodka Smirnoff, ông ta tợp luôn một hơi, và rót tiếp ly thứ hai.
Chẳng bao lâu nữa ta sẽ thành người thư nhàn.
Lục trong quầy rượu, Rémy tìm thấy một cái mở rượu tiêu chuẩn và bật mở lưỡi dao sắc nhọn. Con dao thường dùng để cắt lớp thiếc bọc trên đầu nút những chai rượu vang loại tốt, nhưng sáng nay, nó sẽ phục vụ một mục đích ly kỳ hơn nhiều. Rémy quay lại và đối mặt với Silas, giơ lưỡi dao sáng loáng lên.
Bây giờ đôi mắt đỏ ánh lên sự sợ hãi.
Rémy mỉm cười và đi về phía sau chiếc limousine. Gã tu sĩ lùi lại vật lộn với dây trói.
"Nằm im", Rémy thì thầm, giơ con dao lên.
Silas không thể tin là Chúa đã bỏ hắn. Thậm chí nỗi đau thể xác do bị trói cũng được Silas chuyển thành một bài tập tâm linh, biến cái giật thon thót của những cơ bắp khát máu thành sự nhắc nhớ tới nỗi đau mà Chúa Kirixitô đã phải chịu đựng. Mình đã cầu nguyện cả đêm cho sự giải thoát. Giờ đây, khi con dao hạ xuống, Silas nhắm chặt mắt lại.
Một cơn đau xé xuyên qua bả vai. Hắn gào lên, không thể tin được là hắn sắp chết ở đây, phía sau chiếc limousine này, không thể tự bảo vệ. Mình đang làm công việc của Chúa. Thầy Giáo đã nói thầy sẽ bảo vệ mình.
Silas cảm thấy cái gì âm ấm nhoi nhói lan ra khắp lưng và vai, hắn có thể hình dung máu của chính mình đang trào ra trên da thịt. Bây giờ cơn đau nhức nhối xuyên qua đùi gã, và hắn cảm thấy ập tới con sóng ngẫm dội ngược lại của sự mất phương hướng - cơ chế đề kháng của cơ thể chống lại nỗi đau.
Khi cơn đau rát xé dọc các cơ bắp, hắn nhắm mắt chặt hơn, quyết định rằng hình ảnh cuối cùng của cuộc đời hắn sẽ không phải kẻ giết mình. Thay vào đó, hắn tưởng tượng ra một giám mục Aringarosa trẻ hơn, đứng trước nhà thờ nhỏ ở Tây Ban Nha… nhà thờ mà ông và Silas đã xây bằng chính đôi bàn tay họ. Sự khởi đầu của cuộc đời mình.
Silas cảm thấy như thể thân xác đang bị thiêu trên lửa.
"Uống một ly đi", người đàn ông mặc xmôckinh thì thào giọng Pháp, "nó sẽ giúp cho khí huyết lưu thông".
Silas mở choàng mắt, ngạc nhiên. Một hình ảnh nhạt nhòa cúi vế phía hắn, đưa cho hắn một ly chất lỏng. Một đống băng dính bị xé vụn nằm trên sàn bên cạnh con dao vấy máu.
"Uống đi", ông ta lặp lại, "cơn đau mà anh cảm thấy là do máu dồn vào các cơ bắp".
Silas cảm thấy cơn dập dồn nóng rát giờ chuyển thành giậm giựt nhoi nhói. Vị vodka thật kinh khủng, nhưng hắn vẫn uống, cảm thấy biết ơn vì mặc dù số phận đã giáng cho hắn một phần lớn của cái rủi đêm nay, nhưng Chúa đã giải quyết tất cả bằng một xoay chuyển diệu kì.
Chúa đã không bỏ rơi mình.
Silas biết giám mục Aringarosa ắt gọi diễn biến này là sự canthiệp của Chúa.
"Tôi đã muốn giải thoát cho anh sớm hơn", người hầu biện minh, nhưng không thể. Với sự xuất hiện của cảnh sát ở Château Villette, và sau đó ở sân bay Biggin Hill, đây là thời điểm khả thi đầu tiên. Anh có hiểu không, Silas?".
Silas giật mình lùi lại: "Ông biết tên tôi?".
Người hầu mỉm cười.
Silas ngồi dậy, xoa những cơ bắp tê cứng, cảm xúc của hắn lúc này là một dòng lũ pha lẫn bán tín bán nghi, cảm phục và bối rối: "Ông có phải là… Thầy Giáo?".
Rémy lắc đầu, cười cái câu hỏi hàm ý xác nhận: "Tôi ước gì tôi có được quyền năng đó. Không, tôi không phải là Thầy Giáo. Như anh, tôi phục vụ ông. Nhưng Thầy Giáo đánh giá cao anh. Tên tôi là Rémy.".
Silas kinh ngạc: "Tôi không hiểu. Nếu ông làm việc cho Thầy Giáo, tại sao Langdon lại mang viên đá đỉnh vòm về nhà của ông?".
"Không phải nhà của tôi, mà là nhà của nhà sử học hàng đầu thế giới về Chén Thánh, ngài Leigh Teabing".
"Nhưng ông sống ở đó. Có lẽ là…".
Rémy mỉm cười, dường như chẳng mắc mớ gì với việc Langdon chọn nơi ẩn náu có vẻ như một sự trùng hợp: "Tất cả đều có thể đoán được. Robert Langdon đang sở hữu viên đá đỉnh vòm, và ông ta cần sự giúp đỡ. Còn nơi nào hợp lý hơn là nhà của Leigh Teabing? Trước hết việc tôi tình cờ sống ở đó là lý do tại sao Thầy Giáo tiếp cận tôi". Ông ta dừng lại. "Anh nghĩ làm thế nào mà Thầy Giáo biết nhiều như vậy về Chén Thánh?".
Bây giờ sự việc bắt đầu hiện rõ và Silas vô cùng sửng sốt. Thầy Giáo đã tuyển một người hầu có thể truy nhập tất cả những gì mà ngài Teabing nghiên cứu. Thật là xuất sắc.
"Có rất nhiều điều tôi cần nói với anh", Rémy nói, đưa cho Silas khẩu Heckler & Knoch đã nạp đạn. Rồi ông ta với tay qua vách ngăn để ngỏ, lấy ra từ hộp đựng găng một khẩu súng lục ổ quay nhỏ gọn trong lòng bàn tay. "Nhưng trước tiên, anh và tôi có việc cần làm đã".
***
Đại uý Fache bước từ chiếc chuyên cơ xuống sân bay Biggin Hill và lắng nghe đầy ngờ vực báo cáo của chánh thanh tra quận Kent về những gì đã xảy ra trong hăng-ga của Teabmg.
"Chính tôi đã lục soát chiếc máy bay", chánh thanh tra quả quyết "và không có một ai trong đó". Giọng ông ta trở nên ngạo mạn. "Và tôi nên nói thêm rằng nếu ngài Leigh Teabing khiếu tố tôi, tôi sẽ… ".
"Ông đã thẩm vấn người phi công chưa?".
"Tất nhiên là chưa. Anh ta là người Pháp, và quyền thực thi pháp lý của chúng tôi yêu cầu… ".
"Đưa tôi tới chỗ chiếc máy bay".
Khi tới hăng-ga, Fache chỉ cần sáu mươi giây để phát hiện ra một vết máu bất thường trên sàn lát gần chỗ chiếc limousine vừa đỗ. Fache bước lên máy bay và gõ mạnh vào thân máy bay.
"Đây là đại úy Cảnh sát tư pháp Pháp. Mở cửa ra!".
Viên phi công sợ hãi mở cửa xập và hạ cầu thang rút.
Fache trèo lên. Ba phút sau, với sự trợ giúp của khẩu súng, ông ta đã có được đầy đủ lời thú nhận, kể cả sự mô tả gã tu sĩ bạch tạng. Thêm vào đó, ông ta còn biết rằng viên phi công đã thấy Langdon và Sophie để lại vật gì trong két an toàn của Teabing, một thứ hộp gỗ gì đó. Mặc dù viên phi công phủ nhận không biết có gì trong hộp, anh ta thừa nhận là Langdon chỉ tập trung chú ý vào nó trong suốt chuyến bay tới London.
"Mở két an toàn ra", Fache yêu cầu.
Viên phi công có vẻ sợ hãi. "Tôi không biết mã khoá số!".
"Đáng tiếc. Tôi đang định đề nghị để anh được giữ bằng lái của mình".
Viên phi công vặn hai tay vào nhau: "Tôi biết một vài người trong bộ phận duy tu ở đây. Có lẽ họ có thể khoan nó chăng?".
"Anh có nửa giờ".
Viên phi công lao tới máy bộ đàm.
Fache bước về phía sau máy bay và tự rót rượu cho mình.
Lúc này vẫn sớm, nhưng vì ông ta chưa được chợp mắt nên đây không kể là uống rượu trước buổi trưa. Ngồi xuống chiếc ghế bọc vải nhung, ông ta nhắm mắt lại, cố gắng phân tích những gì đang diễn ra. Sai lầm của cảnh sát quận Kelt có thể làm mình trả giá đắt. Giờ đây, mọi người đang dồn sức tìm kiếm chiếc limousine Jaguar màu đen.
Chuông điện thoại của Fache vang lên, và ông ta ước có được một phút bình yên. "Alô?".
"Tôi đang trên đường tới London", đó là giám mục Aringarosa. "Tôi sẽ tới nơi trong vòng một giờ nữa".
Fache ngồi xuống: "Tôi tưởng ngài đang đi Paris?".
"Tôi rất lo lắng và đã thay đổi kế hoạch".
"Lẽ ra ngài không nên làm vậy".
"Ông đã tìm được Silas chưa?".
"Chưa. Những kẻ bắt giữ hắn đã qua mặt được cảnh sát địa phương trước khi tôi hạ cánh".
Giọng Aringarosa gắt lên, giận dữ: "Ông đã cam đoan với tôi là sẽ ngăn chiếc máy bay đó lại!".
Fache hạ thấp giọng: "Thưa giám mục, xét tình cảnh của ngài, tôi khuyên ngài đừng thử thách lòng kiên nhẫn của tôi ngày hôm nay. Tôi sẽ tìm thấy Silas cùng những tên kia trong thời hạn sớm nhất có thể. Ngài sắp hạ cánh ở đâu?".
"Chờ một lát", Aringarosa che ống nghe, rồi nói tiếp, "tay phi công đang xin phép hạ cánh ở Heathrow. Tôi là hành khách duy nhất của anh ta, nhưng việc đổi hướng bay là ngoài kế hoạch".
"Hãy bảo anh ta tới sân bay Biggin Hill. Tôi sẽ xin cho anh ta hạ cánh. Nếu tôi không có ở đây khi ngài hạ cánh, tôi sẽ cho xe đợi ngài".
"Cám ơn ông".
"Như tôi đã nói trong lần đầu chúng ta nói chuyện với nhau, thưa giám mục, ngài nên nhớ kỹ rằng ngài không phải là người duy nhất sắp mất hết mọi thứ".


Ngươi kiếm tìm trái cầu lẽ ra phải ở trên mộ chàng.
Mỗi tượng hiệp sĩ bên trong Nhà thờ Temple đều nằm ngửa, gối đầu trên một phiến đá hình chữ nhật. Sophie cảm thấy ớn lạnh. Bài thơ nhắc tới trái cầu gợi lại những hình ảnh về cái đêm trong tầng hầm của ông cô.
Hieros Gamos. Những quả cầu.
Sophie tự hỏi liệu phải chăng lễ tế đó đã từng được tiến hành trong chính điện thờ này. Căn phòng hình tròn dường như được đặt hàng xây dựng riêng cho một nghi thức ngoại giáo như vậy. Một hàng ghế đá dài được đặt thành hình tròn ở khoảng trống giữa phòng. Một rạp hát vòng tròn, như Robert đã gọi nó. Sophie tưởng tượng ra căn phòng về đêm, đầy những người đeo mặt nạ, cầu kinh dưới ánh đuốc, tất cả chứng kiến sự "hợp nhất thần thánh" ở trung tâm căn phòng.
Gắng xua đuổi hình ảnh đó ra khỏi tâm trí, cô tiến lên cùng với Langdon và Teabing đến chỗ nhóm hiệp sĩ đầu tiên. Mặc dù Teabing nhấn mạnh là phải xem xét thật tỉ mỉ, Sophie cảm thấy nôn nóng và dấn lên trước, lướt nhanh qua năm hiệp sĩ ở bên trái.
Quan sát cẩn thận những ngôi mộ đầu tiên, Sophie ghi nhận những nét giống và khác nhau giữa chúng. Mỗi hiệp sĩ đều nằm ngửa, nhưng ba trong số họ chân duỗi thẳng hai người còn lại vắt chéo chân. Sự kỳ lạ này có vẻ chẳng có liên quan gì tới quả cầu thiếu vắng. Xem xét y phục, Sophie nhận thấy hai hiệp sĩ mặc áo dài ra ngoài áo giáp, trong khi ba người còn lại mặc áo chùng đến mắt cá chân. Một lần nữa, những điều này chẳng giúp ích được gì. Sophie chuyển sự chú ý của mình sang sự khác nhau hiển nhiên duy nhất còn lại - tư thế cánh tay. Có hai hiệp sĩ tay nắm chặt kiếm, hai người đang cầu nguyện, và một người đứng chống nạnh. Sau một lúc lâu ngắm nhìn những cánh tay, Sophie nhún vai, chẳng thấy chỗ nào hé lộ dấu vết của quả cầu khuyết diện.
Cảm thấy trọng lượng của hộp mật mã trong túi áo len, cô quay lại nhìn Langdon và Teabỉng. Họ thật chậm chạp, bây giờ mới đi qua người hỉệp sĩ thứ ba, hình như cũng chẳng may mắn hơn. Chẳng có bụng dạ nào mà chờ, cô bỏ mặc họ, hướng tới nhóm hiệp sĩ thứ hai. Khi đi ngang qua khoảng trống, cô nhẩm lại bài thơ mà cô đã đọc thuộc lòng đến mức như khắc cào tâm khảm.
Ở London yên nghỉ một hiệp sĩ được Giáo hoàng mai táng.
Kết quả công sức chàng chuốc lấy cơn thịnh nộ Thần Thánh.
Ngươi kiếm tìm trái cầu lẽ ra phải ở trên mộ chàng.
Nó nói về da thịt Hồng và tử cung mang hạt giống.
Khi Sophie đi đến chỗ nhóm hiệp sĩ thứ hai, cô thấy nhóm thứ hai cũng tương tự như nhóm thứ nhất. Tất cả nằm ở những tư thế khác nhau, mang áo giáp và kiếm.
Tất cả, ngoại trừ ngôi mộ thứ mười và cũng là cuối cùng.
Đi tới đó thật nhanh, cô nhìn chăm chăm xuống mộ.
Không gối. Không giáp trụ. Không áo dài. Không gươm.
"Robert? Leigh?" Cô gọi, giọng vang vọng trong phòng. "Ở đây có cái gì thiếu vắng".
Hai người đàn ông cùng ngẩng lên và bắt đầu đi về phía cô ngay lập tức.
"Một quả cầu?". Teabing hỏi đầy phấn khích. Đôi nạng của ông lộc cộc theo một tiết tấu gấp, ngắt đoạn trong khi ông hối hả đi ngang phòng. "Thiếu một quả cầu ư?".
"Không hẳn thế", Sophie trả lời, cau mày nhìn ngôi mộ thứ mười. "Hình như thiếu cả một hiệp sĩ".
Tới bên cạnh cô, cả hai bối rối nhìn trân trân xuống ngôi mộ thứ mười. Thay vì một hiệp sĩ nằm ở ngoài trời, ngôi mộ này là một quan tài đá đóng kín. Quan tài hình thang, thon đằng chân, loe ra ở đằng đầu, với một cái nắp có chóp nhọn.
"Tại sao hiệp sĩ này không được thể hiện ra ngoài?". Langdon hỏi.
"Hấp dẫn đấy". Teabing nói, tay xoa cằm. "Tôi đã quên mất về điều kỳ lạ này. Đã nhiều năm trôi qua từ khi tôi còn ở đây".
"Chiếc quan tài này," Sophie nói, có vẻ như được chạm khắc vào cùng một thời điểm và cùng một người thợ với chín ngôi mộ kia. Vậy tại sao hiệp sĩ này lại ở trong quan tài chứ không ở ngoài?".
Teabing lắc đầu: "Đây là một trong những điều kỳ bí của nhà thờ này. Theo tôi biết thì chưa ai lý giải được điều này".
"Xin chào?". Cậu bé lễ sinh nói, chạy tới với vẻ lo lắng hiện rõ trên nét mặt: "Xin thứ lỗi nếu điều này có vẻ thô lỗ nhưng ngài đã bảo là các ngài muốn rải tro. Vậy mà các ngài hình như đang ngắm cảnh thì phải".
Teabing quắc mắt nhìn cậu bé và quay sang Langdon: "Ông Wren, hình như lòng nhân đức của gia đình ông không mua được thời gian như trước đây, có lẽ chúng ta nên lấy tro ra và bắt đầu công việc thôi". Teabing nhìn sang Sophie. "Bà Wren?".
Sophie cũng diễn theo, lôi cái hình trụ bọc da ra khỏi túi áo.
"Nào bây giờ", Teabing gắt cậu bé, "cháu có thể cho chúng ta chút riêng tư được chứ?".
Cậu bé lễ sinh vẫn không nhúc nhích. Nó nhìn Langdon chằm chằm: "Trông ông rất quen".
Teabing sẵng giọng: "Có lẽ bởi vì ông Wren hàng năm đều tới đây!".
Hoặc có lẽ, Sophie bắt đầu thấy sợ, bởi vì nó nhìn thấy Langdon trên ti vi ở toà thánh Vatican năm ngoái.
"Tôi chưa từng gặp ông Wren", cậu bé khẳng định.
"Em nhầm đấy", Langdon trả lời nhã nhặn. "Tôi tin là chúng ta đã gặp nhau thoáng qua hồi năm ngoái. Cha Knowles đã quên không chính thức giới thiệu chúng ta với nhau, nhưng tôi đã nhận ra em ngay khi chúng tôi vửa vào. Này, tôi biết đây là một sự đột nhập, nhưng nếu em có thể cho chúng tôi thêm vài phút, tôi đã phải đi rất xa để rắc tro lên các ngôi mộ này".
Langdon nói những lời này với giọng điệu đáng tin đặc trưng của Teabing.
Vẻ mặt cậu bé lễ sinh lại càng tỏ ra nghi ngờ: "Đây không phải là mộ".
"Xin lỗi?". Langdon nói.
"Tất nhiên đây là những ngôi mộ", Teabing tuyên bố. "Cháu đang nói về cái gì thế?".
Cậu lễ sinh lắc đầu: "Mộ thì phải có thi hàỉ. Đây là những hình nộm. Tượng đá để tôn vinh người thật. Chẳng có cái xác nào dưới những bức tượng đá này cả".
"Đây là một hầm mộ tượng trưng trong nhà thờ!" Teabing nói.
"Cái đó chỉ có trong những quyển sách lịch sử lỗi thời mà thôi. Trước kia chỗ này được tin là một hầm mộ nhưng trong cuộc cải cách 1950, người ta đã phát hiện ra rằng không phải thế". Cậu thanh niên quay sang Langdon. "Và tôi tưởng ông Wren phải biết điều đó chứ, vì chính gia đình ông ta đã khám phá ra sự thật đó".
Im lặng đè nặng.
Rồi bị phá vỡ bởi tiếng xập cửa trong dẫy nhà phụ.
"Chắc hẳn là cha Knowles", Teabing nói, "có lẽ cháu nên ra xem?".
Cậu lễ sinh vẫn có vẻ nghi ngờ nhưng lộn trở ra dẫy nhà phụ, để lại Langdon, Sophie và Teabing nhìn nhau rầu rĩ.
"Leigh", Langdon thì thào, "không có xác sao? Nó vừa nói cái gì vậy?".
Teabing có vẻ quẫn trí: "Tôi không biết. Tôi cứ nghĩ… chắc chắn phải là chỗ này. Tôi không thể tưởng tượng thằng bé biết nó đang nói về cái gì. Thật chẳng ra nghĩa lý gì!".
"Cho tôi xem lại bài thơ được không?". Langdon nói.
Sophie lôi cái ống hình trụ từ trong túi áo ra và cẩn thận đưa cho Langdon.
Langdon mở miếng da ra và giữ hộp mật mã trong tay trong khi xem kỹ lại bài thơ. "Phải, bài thơ dứt khoát nhằm chỉ một ngôi mộ hẳn hoi chứ không phải một hình nộm".
"Bài thơ có thể sai không?" Teabing thắc mắc. "Có lẽ nào Jacques Saunière cũng mắc cái sai lầm giống như tôi vừa rồi?".
Langdon suy xét và lắc đầu: "Leigh, chính miệng ngài nói ra đấy. Nhà thờ này được xây bởi các Hiệp sĩ Templar, đội quân của Tu viện Sion. Một cái gì đó nói với tôi rằng vị Đại Sư của Tu viện Sion ắt biết rõ các hiệp sĩ có được chôn cất tạì đây hay không".
Teabing có vẻ kinh ngạc: "Nhưng nơi này quá hoàn hảo". Ông quay lại chỗ những tượng hiệp sĩ. "Chúng ta chắc hẳn đã bỏ sót điều gì đó!".
***
Bước vào khu nhà phụ, cậu lễ sinh rất ngạc nhiên khi thấy chẳng có ai. "Cha Knowles?", mình nghe thấy tiếng xập cửa mà, cậu nghĩ, đi ra cho đến khi nhìn thấy cổng vào.
Một người đàn ông gày guộc mặc xmôckinh đứng gần cửa ra vào, gãi đầu, vẻ bối rối. Cậu lễ sinh thốt ra một tiếng gắt bực bội, nhận ra mình đã quên không khoá cửa lại sau khi để cho mấy người kia vào. Bây giờ một gã bi đát lang thang ngoài phố tạt vào tìm kiếm xem có lễ cưới nào để kiếm chác. "Xin lỗi", cậu nói to, "chúng tôi đóng cửa rồi".
Một tiếng vái loạt xoạt đằng sau cậu, và trước khi cậu lễ sinh kịp quay lại, đầu cậu giật về phía sau, một bàn tay to khoẻ bịt chặt miệng cậu, không để cậu kêu. Bàn tay bịt miệng cậu lễ sinh trắng như tuyết, và cậu ngửi thấy mùi rượu.
Người đàn ông điềm tĩnh trong bộ xmôckinh lạnh lùng dí khẩu súng lục ổ quay vào giữa trán cậu lễ sinh.
Cậu lễ sinh cảm thấy vùng háng mình nong nóng và nhận ra rằng cậu đã tè ra quần.
"Nghe cho kỹ đây", người đàn ông mặc xmôckinh nói khẽ, "Hãy lặng lẽ ra khỏi nhà thờ, và chạy đi. Không được dừng lại. Rõ chưa?".
Cậu gật đầu thật mạnh với bàn tay vẫn bịt miệng cậu.
Nếu mày gọi cảnh sát…". Người đàn ông mặc xmôckinh ấn khẩu súng lên da cậu, "tao sẽ tìm ra mày đấy".
Điều tiếp theo cậu biết là chạy thật nhanh qua sân sau và không dừng lại cho đến khi chân còn có thể chạy được.



***Xem trang:
[1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15][16][17][18][19][20]
[21][22][23][24][25][26][27][28][29][30][31][32][33][34][35][36][37][38][39][40]
[41][42][43][44][45][46][47][48][49][50][51][52]

TOP WAP WORLDWIDE


mobiV trang ch

© GIAITRI102.TK
Thanks to XTGEM