TÌNH YÊU: Hôm sau, đoàn đi thăm một lâu đài nhỏ từ thời Hoàng Hậu Anne, thế kỷ 18. Nơi ở đẹp, có giá trị lịch sự rõ rệt.
Richard Jameson ngắm không chán vẻ đẹp của tòa nhà, qua phòng nào cũng dừng lại chỉ cho mọi người những chi tiết hoa văn đáng chú ý trên trần hay lò sưởi, kể vanh vách những niên đại, những sự kiện lịch sử. Ông này thuộc loại thích khoe khoang hiểu biết của mình. Đoàn viên, lúc đầu có người chăm chú nghe, dần dần bắt đầu sốt ruột, phát ngán vì phải nghe mãi lời độc thoại. Một số lảng ra xa, lùi lại phía sau. Anh hướng dẫn viên địa phương cũng chẳng thích thú gì vì chức trách của mình bị chiếm đoạt, một vài lần định sửa chữa lại tình thế, nhưng
Jameson vẫn thao thao. Anh ta liền cố một lần cuối cùng:
- Thưa quý bà quý ông, chính trong phòng này, mệnh danh phòng trắng, người ta đã khám phá ra xác một chàng trai bị đâm chết. Chuyện xảy ra vào năm 1700. Người ta kể phu nhân Moffat có một người tình, anh này thường đột nhập vào phòng bằng chiếc cửa nhỏ bên ngoài ngụy trang bằng một mảnh ván di động ở phía trái lò sưởi. Chồng bà ta là Ngài Richard Moffat, có việc di Hòa Lan, một buổi tối bất ngờ trở về và bắt gặp đôi trai gái.
Anh hướng dẫn viên ngừng lời, hãnh diện vì cuối cùng đã được mọi người lắng nghe.
- Henry, anh có thấy là lãng mạn cực kỳ chưa? - Bà Butler cất giọng Mỹ lơ lớ. Trong phòng này đúng là có một không khí đặc biệt, em cảm thấy ngay.
- Nhà tôi rất nhạy cảm với các bầu không khí - Ông Butler quay lại giải thích với mọi người. Một lần, chúng tôi ở Louisiane, trong một ngôi nhà rất cổ ...
Mọi người ồn ào bàn tán. Tranh thủ lúc đó, cô Marple và hai hoặc ba vị khách khác lẻn ra khỏi phòng, xuống dưới nhà. Cô nói với hai cô Cooke và Barrow đang đứng bên cạnh:
- Một bà bạn của tôi cách đây mấy năm cũng gặp cảnh tương tự: thấy một xác chết trong phòng sách.
- Là người trong gia đình? Cô Barrwow hỏi. Chắc bị động kinh?
- Không! Án mạng hẳn hoi. Một phụ nữ tóc vàng. Nhưng tóc đã bị phai màu, thực ra là tóc nâu! Ôi ! ....
Cô Marple ngừng bặt, mắt nhìn dán vào bộ tóc cô Cooke. Lời giải loé nhanh như chớp. Cô chợt hiểu ra tại sao mặt cô này quen quen và đã gặp ở đâu. Có điều lúc đó, tóc cô Cooke đen.
Bà Riseley - Porter xuống theo sau, vượt lên trước cô Marple. Bà nói:
- Tôi chịu, không leo lên leo xuống mãi. Với lại, ở lâu trong các phòng ấy ngột ngạt thế nào. Hình như các vườn quanh lâu đài cũng rát nổi tiếng. Ta ra đấy đi. Mây kéo đến rồi này, khéo không mưa tới nơi.
Giọng nói đầy uy quyền của bà Riseley - Porter mang lại ngay hiệu quả : tất cả các khách ở quanh đấy đều theo bà. Riêng cô Marple đến chiếc ghế dài, ngồi xuống thở phào. Cô Temple từ đâu tới, cũng ngồi xuống bên cạnh. Cô này nói:
- Đi tham quan bao giờ cũng mệt. Nhất là cứ mỗi phòng lại phải nghe lên lớp về lịch sử.
- Đúng thế. Nhưng những điều nghe được không phải không bổ ích.
Cô Temple quay đầu lại phía bà bạn. Giữa hai người như có một luồng thông cảm vui vẻ.
- Cô không thấy thế sao? - Cô Marple hỏi:
- Không.
Hai người đã có thể hoàn toàn thông cảm.
- Vườn này là do Homan thiết kế, năm 1798 hoặc 1800 - cô Temple giải thích.
- Thật là buồn, một người tài giỏi như thế lại chết trẻ. Thấy người nào chết trẻ, tôi rất ngao ngán.
- Không hẳn thế đâu, cô ạ - cô Temple đáp, vẻ suy tư.
- Người chết trẻ thiệt bao nhiêu thứ!
- Hay tránh được bao nhiêu thứ? Tôi đã sống gần cả cuộc đời với lớp trẻ, và tôi coi mỗi cuộc đời là một thời kỳ trọn vẹn tự bản thân nó. T.S.Eliot nói:" Đời một bông hồng và đời một cây tùng dài ngang nhau."
- Tôi hiểu nhà thơ muốn nói gì. Đời người dù dài ngắn thế nào, cũng là một kinh nghiệm trọn vẹn. Nhưng nếu một cuộc đời bị phạt ngang, thì có thể nói là trọn vẹn không?
- Vâng, đáng suy nghĩ ...
Cô Marple đưa mắt ngắm những bông hoa:
- Hoa mẫu đơn kia tuyệt đẹp. Mỏng manh, nhưng kiêu hảnh.
- Cô đến đây để xem vườn hay nhà?
- Có lẽ nhà nhiều hơn. Tôi rất thích vườn, nhưng những ngôi nhà cổ ở đây với tôi là điều mới , chúng đa dạng vvói bàn ghế, tranh ảnh gợi lên những kỷ niệm lịch sử. Một ông bạn đã tặng tôi chuyến đi này, tôi rất biết ơn.
- Người bạn ấy đã quan tâm đến cô một cách cảm động.
- Cô có hay đi du lịch thế này không?
- Không. Với tôi, đây không hẳn là du lịch.
Cô Marple nhìn người đồng hành một cách lạ lẫm, mở miệng định nói, nhưng lại thôi, không đặt câu hỏi. Cô Temple mỉm cười, nói:
- Chắc cô muốn biết, vậy tại sao tôi đến đây. Cô thử đoán xem nào? Cũng hay đấy.
Cô Marple lặng yên lúc lâu, đăm đam nhìn người tiếp chuyện, mãi mới nói:
- Tôi biết rồi, cô là người có tiếng tăm, trường của cô cũng có tiếng không kém. Nhưng tôi không căn cứ vào những điều đã biết về cô. Tôi xin đưa ra một giả thuyết, căn cứ vào dáng bộ, thái độ của cô và những gì tôi quan sát. Tôi thấy cô như người ... đang làm một cuộc hành hương.
Lại im lặng một lúc, rồi cô Temple nói:
- Cô đoán đúng. Tôi đang hành hương thật sự.
Một lát, cô Marple nói:
- Người bạn tặng tôi chuyến đi này, giờ đã mất. Ông ấy tên Rafiel. Cô biết ông ấy không?
- Jason Rafiel? Tôi chỉ nghe tên, chưa gặp bao giờ, ông ấy tài trợ số tiền lớn cho một dự án học đường mà tôi tham gia. Tôi đọc báo, biết ông chết, đã mất mấy tuần ... Vậy ra ông ấy là bạn của cô.
- Gọi là bạn, không hẳn đúng. Tôi quen ông từ Antilles, một năm rưỡi trước. Nhưng tôi không biết mấy về ông, ông rất kín đáo. Cô có biết gia đình ông? Nhiều lúc tôi muốn hiểu ông hơn, nhưng không tiện hỏi, sợ mang tiếng tò mò ...
Elizabett Temple giữ im lặng đến một phút.
- Tôi biết một em gái, học trò của tôi ở Fallowfield, một thời đã đính hôn với con trai ông Rafiel.
- Và rồi em đó không lấy?
- Không. Có thể em ấy đã quá sáng suốt. Dù sao, cậu con trai ấy không thuộc loại người mà ta muốn thấy kết hôn với một cô gái mà ta yêu quý. Em gái này rất hiền, rất đáng yêu. Nhưng thực ra, tôi cũng không biết vì sao xảy ra tan vở. Không ai nói. Còn em gái, thì đã chết.
- Chết vì gì? Cô Marple khẽ hỏi.
- Vì tình.
Câu trả lời vắn tắt vang lên như một hồi chuông nguyện. Elizabett Temple lơ đãng nhìn ra vườn hoa.
- Vì tình yêu? - Cô Marple hỏi lại.
- Tình yêu , một trong những từ cay nghiệt nhất trên đời - Cô Temple lặp lại với một giọng đầy ai oán, chua chát. Tình yêu .... LỜI MỜI: Cô Marple tuyên bố mình hơi mệt nên sẽ không tham gia đi thăm ngôi nhà thờ thến kỷ 14 dự kiến vào buổi chiều. Cô sẽ nghỉ ngơi và chờ mọi người tại phòng trà ở phố lớn, nơi ai nấy sẽ phải tập kết.
Ngồi yên ấm trong chiếc ghế bành, cô suy nghĩ xem mình nên làm gì. Lúc mọi người trở về vào giờ dùng trà, cô kín đáo theo chân cô Cooke và cô Barrow để cùng ngồi vào một bàn bốn chỗ. Ông Caspar đến ngồi cùng, song cô Marple cho rằng trình độ tiếng Anh của ông rất kém nên sẽ không gây trở ngại gì.
Cô ghé vào tai cô Cooke:
- Cô này, rõ ràng là chúng ta đã gặp nhau.
Cô Cooke ngập ngừng quay về phía cô Barrwo, cô này có vẻ không để ý đến vấn đề. Cô Marple nói tiếp:
- Không hiểu cô có cùng ở khu vực với tôi. Tôi sống ở Sainte- Marie - Mead chỉ là làng nhỏ, nhưng nhiều nhà mới xây. Không xa Much Benham, chỉ cách Loomouth mười hai dặm.
- Tôi biết rõ Loomouth. Hay là ...
- Thôi đúng rồi! Cô Marple bỗng reo lên. Nhớ rồi: tôi đang đứng trong vườn thì cô đi qua. Cô chuyện trò với tôi mấy câu, nói là đang ở nhà một bà bạn ...
- Phải rồi! Thế mà sao tôi không nhớ ra ngay. Hôm ấy cô bảo khó tìm được thợ làm vưòn giỏi. Tôi ở nhà ... nhà ...
Cô Cooke ấp úng, như không nhớ được tên.
- Nhà bà Sutherland chăng? Cô Marple gợi.
- Không, không. Nhà ... bà ...
- Hastings, Cô Barrow vừa cầm miếng bánh vừa nhắc.
- À phải! Trong một nhà mới xây ấy.
- Hastings, ông Caspar xen vào, có vẻ không hiểu rõ là chuyện gì. Tôi đã từng tới Hastings, một lần. Eastbourne nữa. Rất đẹp. Bên bờ biển.
- Tình cờ thật -cô Marple tiếp tục, không ngờ lại sớm gặp lại cô. Trái đất quá bé nhỏ.
- Tôi cũng như cô, thích vườn đẹp.
- Hoa, đẹp. Ông Caspar lại xen vào. Tôi cũng thích.
Cô Marple và cô Cooke xoay sang nói chuyện vườn tược, đi sâu vào kỷ thuật. Cô Barrow thỉnh thoảng chêm vào một câu, còn ông Caspar im lặng cười một mình.
Ít lâu sau, trong lúc ngồi nghỉ trước bữa tối, cô Marple lại đắm mình vào suy nghĩ. Thế là cô Cooke công nhận mình đã ở Saint - Marie - Mead. Nhưng đó có phải sự tình cờ? Phải chăng cô ta đến ở đó là có lý do? Ai cử cô ta đến? Nhằm mục đích gì?
- Mọi sự tình cờ - cô nghĩ thầm - phải được xem xét kỹ. Khi nào rõ ràng là tình cờ thì gạt sang bên cũng chưa muộn.
Cô Cooke và cô Barrow rõ ràng là hai người bạn, không thể khác. Họ đã nói là năm nào họ cũng cùng đi du lịch với nhau. Năm ngoái, họ du lịch ở Hy Lạp, năm trước nữa họ đi Hòa Lan. Rõ ràng là những con người vô hại. Tuy nhiên, cô Marple có cảm giác rằng cô Cooke lúc đó đã suýt định chối là chưa từng ở Saint - Marie - Mead. Cô ấy đã quay sang nhìn bạn, như muốn hỏi nên trả lời thế nào.
- Tất nhiên, cũng có thể là mình chỉ tưởng tuợng.
Song, hai tiếng "nguy hiểm" bỗng hiện lên trong óc cô Marple. Ông Rafiel đã dùng từ ấy trong lá thư đầu, rồi lại nói về thần hộ mệnh trong thư thứ hai. Có thực là cô đang gặp nguy hiểm? Và nguy hiểm từ đâu? Chắc không phải từ hai cô Cooke và Barrow. Dù sao, cô Cooke đã tẩy màu tóc, làm lại cái đầu, cứ như là định thay hình đổi dạng. Rồi cô lại nghĩ sang ông Caspar. Nếu là nhân vật nguy hiểm, thì có thể là ông này lắm. Xem ra ông ta hiểu tiếng Anh nhiều hơn, ông ta giả bộ. Cô Marple chưa bao giờ rũ sạch được hết thành kiến với những người nước ngoài, thật là vô lý - cô cũng nhận thấy như thế - vì cô có nhiều bạn ở khắp các nước.
Và Emlyn Price, anh chàng tóc dài, tập tọng làm kẻ vô chính phủ? Và cặp vợ chồng Mỹ. Trông thì đáng yêu nhưng liệu có thật trong trắng?
- Quả thật, không biết đằng nào mà lần - cô thở dài.
Cô liền chuyển chú ý sang xem ngày mai đi đâu. Cuộc tham quan dự định sẽ rất vất vả, ban tổ chức đã nói rõ ai muốn nghỉ có thể ở lại khách sạn, hoặc đi dạo chơi ở một nơi gần, có phong cảnh đẹp. Cô nghĩ thầm sẽ theo phương án thứ hai. Cô không ngờ mọi dự định của cô sắp sớm bị đảo lộn
* * *
Hôm sau, cô vừa từ trên phòng của khách sạn Lợn Lòi Vàng đi xuống, thì một phụ nữ khoác măng tô vải tuýt đến gặp:
- Xin lỗi, cô có phải là cô Marple?
- Ờ ... phải.
- Tôi là Glynne, ở gần đây, cùng với chị và em gái ... được biết cô mới đến đây?
- Bà biết tôi đến đây.
Cô Marple lộ vẻ ngạc nhiên sâu sắc.
- Vâng. Một người bạn lâu năm của gia đình chúng tôi cách đây ba tuần viết thư nói rằng cô có thể sẽ tham gia đoàn du lịch. Đó là ông Rafiel.
- Ồ! Ông Rafiel. Chắc bà biết là ...
- Ông ấy đã chết, vâng. Sau khi nhận thư ít lâu thì biết tin. Nhưng chúng tôi vẫn thi hành những chỉ dẫn của ông. Ông đề nghị là cô có thể đến ở nhà chúng tôi hai ngày, nếu cô đồng ý. Phần tham quan đến đây đã khá mệt, nhất là với người cao tuổi, chị em tôi sẽ rất vui nếu cô nhận lời mời. Từ đây về nhà đi bộ chỉ mất mười phút.
Cô Marple do dự một lát. Trông bà Glynne dễ ưa, dáng người bụ bẫm, thái độ thực thà, thân mật tuy có hơi rụt rè. Với lại, không thể coi nhẹ chỉ dẫn của ông Rafiel. Và không hiểu sao, cô thấy bồn chồntrong lòng.
Cô ngước mắt nhìn bà Glynne đang lo lắng chờ đợi.
- Xin cảm ơn bà. Các bà thật tử tế, tôi vui lòng nhận lời mời. BA CHỊ EM: Cô Marple đứng trước cửa sổ của căn phòng, nhìn ra một khu vườn tàn tạ chắc từ lâu không được chăm sóc. Bản thân ngôi nhà, mệnh danh Lâu đài Cổ, thì rất chắc chắn và không thiếu vẻ đẹp. Song rõ ràng nó cũng không được bảo dưỡng thường xuyên.
Trong lúc bà Glynne dẫn cô Marple vào phòng, bà đã nói đây là ngôi nhà do ông chú để lại, và bà đến ở với chị và em sau khi chồng bà mất. Nhưng cả ba càng ngày tuổi càng cao, khó tìm được việc làm, thu thập mỗi ngày một giảm sút. Hai người kia - Clotilde và Anthea Bradbury - Scott - đều sống độc thân.
Nhìn khu vườn, cô Marple lại nghĩ đến ông Rafiel. Cô cảm giác giờ đây sắp sắp hiểu rõ hơn công việc mà ông giao phó. Có thể ba chị em bà Glynne có liên quan đến cuộc điều tra. Nhưng liên quan thế nào? Hai ngày, thời gia quá ngắn để đi đến kết quả. Ngày kia, cô đã phải trở về đoàn du lịch, liệu có tìm được dấu hiệu gì chăng? Ba chị em là đồng minh của cô, hay thù địch? Đó là điều đầu tiên cần làm rõ.
Cô đang nghĩ đến đó thì có tiếng gõ cửa, bà Glynne vào:
- Hy vọng cô cảm thấy dễ chịu ở đây. Tôi thu xếp các thứ cho cô nhé? Có một bà giúp việc tên là Janet. Nhưng bà ấy chỉ đến vào buổi sáng.
- Cảm ơn bà. Nhưng đồ đạc của tôi có nhiều đâu.
- Vậy để tôi chỉ cô lối đi xuống dưới, vì nhà này lắm ngóc ngách. Lại có những hai cầu thang, thành ra lắm lúc không biết nên đi cái nào. Chúng ta sẽ cùng uống một cốc xérès trước bữa ăn.
Cô Marple đi theo bà chủ nhà.
- Các bà có một ngôi nhà rất đẹp, cô nói. Tôi đoán phải xây vào cuối thế kỷ 18.
- Vâng. Khoảng năm 1780, nếu tôi không lầm.
Phòng khách rộng và đẹp, có một số đồ đạc có giá trị, ví như một bàn giấy từ thời Hoàng hậu Anne. Cửa sổ phủ rèm Ba Tư, nhưng đã củ. Tấm thảm trải sàn cũng sờn.
Hai người kia đã có mặt, họ đứng dậy chào cô Marple. Một cô đưa ghế ra mời, một cô đưa cốc. Cô út , Anthea, người gày, bộ tóc vàng trước kia nay ngả màu xám buông xõa xuống vai. Cô Marple có cảm giác cô này như người dứơi âm và nếu đóng vai một Ophélie hơi đứng tuổi thì rất hợp. Đôi mắt màu tro của cô mở to như sợ sệt, luôn nhìn quanh mình với vẻ kỳ lạ, như lo mình bị theo dõi. Cô chị Clotide chắc chắn không thể là Ophélie, nhưng rất có thể thủ vai một Clytmemnestre sẵn sàng đâm chết chồng trong bồn tắm. Tuy nhiên trong nhà này không có Agamemnon (1). Hơn nữa, cô chưa từng lấy chồng.
Cô giải thích một lần nữa rằng Lâu đài Cổ trước đây là của một người ông, sau này về tay ông chú, ông này để lai cho họ sau khi chết.
- Ông chú chỉ có một con trai, cô nói rõ thêm, anh này chết trong chiến tranh. Ngoài ra vài anh em họ xa, chúng tôi là những người còn lại cuối cùng của gia đình.
- Nhà rất đẹp, xây rất cân đối, cô Marple khen.
- Vâng. Nhưng nếu đừng to quá thế này thì tốt.
Sửa chữa tốn kém, chúng tôi đành phải để mặc cho một số khu phụ đổ nát, nhất là cái nhà kính, trước đây rất đẹp.
- Ở đó trước đây có một giàn nho tuyệt vời, và những dây leo bò lên tường. Nhưng trong thời gian chiến tranh, không tìm đâu được thợ và người biết làm vườn, nên tất cả đã suy sụp vì không ai sửa chữa.
Bà Glynne chạy vào bếp một lát, còn lại cô Marple vừa nghe chuyện hai cô, vừa nghĩ: "Trong ngôi nhà cổ này có một không khí đượm màu u hoài, buồn bã đã thấm sâu, khó mà xua đuổi." Bất giác, cô rùng mình.