Không bấm vùng phía trên kẻo mất tiền nhé!

Thư ký Sylvie Baudeloque cảm thấy sợ hãi. Chị đang đi đi lại lại bên ngoài phòng làm việc vắng tanh của ông giám đốc. Ông ấy đang ở chỗ quái quỷ nào vậy? Mình phải làm gì bây giờ?
Một ngày làm việc kỳ lạ. Đương nhiên, đã làm việc cho Maximilian Kohler thì bất kỳ ngày nào cũng có thể trở thành một ngày lạ lùng. Nhưng hôm nay Kohler có vẻ khác hẳn mọi khi.
- Tìm cho tôi Leonardo Vetra! - Sáng nay ông ta ra lệnh khi Sylvie vừa đến nơi.
Theo mệnh lệnh, Sylvie nhắn tin, gọi điện và gửi thư điện tử cho Leonardo Vetra.
Bặt vô âm tín.
Vì vậy Kohler vội vàng lao đi, chắc chắn là tự đi tìm Vetra.
Cách đây mấy giờ đồng hồ, khi quay lại văn phòng, trông giám đốc có vẻ không khoẻ… thường thì giám đốc cũng chẳng bao giờ khoẻ, nhưng hôm nay sắc diện ông ấy xấu hơn mọi khi rất nhiều.
Kohler tự giam mình trong văn phòng, và Sylvie nghe thấy tiếng modem, điện thoại, fax và tiếng nói chuyện. Rồi Kohler lại lăn xe ra ngoài. Và kể từ lúc đó đến giờ chưa quay về.
Sylvie quyết định không để ý đến những chi tiết ngớ ngẩn đó, vì Kohler là người hay quan trọng hoá vấn đề; nhưng rồi chị lại bắt đầu lo lắng, không hiểu có phải là giám đốc đã không thể quay về để tiêm thuốc như thường lệ hay không. Bệnh tình của giám đốc đòi hỏi phải được điều trị thường xuyên, và mỗi khi ông ấy bỏ lỡ một lần điều trị thì hậu quả thật là tồi tệ - chỉ cần một cú sốc hô hấp, một cơn ho của Kohler cũng đủ để các nhân viên trạm xá thót tim. Đôi khi Sylvie nghĩ rằng Maximilian Kohler mong muốn được chết lắm rồi.
Sylvie định nhắn tin để nhắc Kohler, nhưng lại nhớ ra rằng con người này luôn cảm thấy bị xúc phạm khi người khác tỏ ra thương hại mình. Tuần trước, khi một nhà khoa học đến thăm viện và bảy tỏ sự thương hại không đúng lúc, giám đốc đã tức phát điên và ném cái cặp tài liệu vào đầu ông ta. Vua Kohler có thể cực kỳ nhanh nhẹn khi ông ta lên cơn.
Tuy nhiên lúc này sức khỏe của giám đốc không phải là nguyên nhân chính khiến Sylvie lo lắng… mà vì một tình huống khác khó khăn hơn nhiều. Tổng đài của CERN vừa gọi về 5 phút trước đây, nói riêng có một cuộc gọi khẩn cho giám đốc.
- Ông ấy giờ không có đây. - Sylvie trả lời.
Nhân viên tổng đài nói tên người đang ở đầu đây bên kia.
Sylvie cười phá lên.
- Cô không đùa đấy chứ?
Chị lắng nghe, đầy vẻ nghi ngờ. Và người gọi đã khẳng định danh tính… Sylvie nhíu mày.
- Tôi hiểu. Được rồi. Cô có thể hỏi xem có chuyện gì… - Sylvie thở dài. - Không. Ổn thôi. Bảo người đó hãy giữ máy. Tôi sẽ tìm giám đốc ngay. Vâng, tôi hiểu. Tôi đi tìm ngay đây.
Nhưng Sylvie không thể tìm được giám đốc. Chị gọi vào máy di động của Kohler ba lần và lần nào cũng đều nhận được câu trả lời: "Số máy quý khách đang gọi hiện ở ngoài vùng phủ sóng". - Ngoài vùng phủ sóng ông ấy có thể đi đâu được nhỉ? Vì thế Sylvie gọi vào máy nhắn tin hai lần nhưng cũng không có tín hiệu trả lời. Thật chẳng giống cung cách của Kohler chút nào. Chị còn gửi cả thư điện tử vào máy tính xách tay của giám đốc. Không thấy gì. Cứ như thể con người này đã biến mất khỏi mặt đất.
Mình nên làm gì đây? Sylvie băn khoăn.
Sau khi đã tự mình tìm kiếm trong toàn bộ tổ hợp của CERN, Sylvie biết chỉ còn một cách duy nhất để thu hút sự chú ý của giám đốc. Ông ấy hẳn sẽ không hài lòng, nhưng người đang đợi giám đốc ở đầu dây bên kia không phải là loại người chịu đợi lâu. Mà nghe cung cách của ông ta thì chị cũng không thể nào trả lời vào máy là không tìm thấy giám đốc. Tự ngạc nhiên trước quyết định táo bạo của mình, Sylvie hành động. Chị bước vào văn phòng của Kohler, đi thẳng đến chiếc hộp kim loại trên tường ngay sau bàn làm việc, mở nắp hộp ra, nhìn vào bảng điều khiển và tìm đúng nút.
Sau khi hít một hơi thật sâu, chị chộp lấy chiếc micro.


Vittoria không nhớ nổi họ đã vào thang máy như thế nào, nhưng ba người đều đang ở trong thang máy. Đi lên. Sau lưng cô, Kohler đang thở khò khè một cách khó nhọc. Ánh mắt lo lắng của Langdon hướng sang phía Vittoria. Anh rút tờ fax trong tay cô gái và đút vào túi áo jackel để hình ảnh ghê rợn ấy khỏi đập vào mắt Vittoria. Nhưng những hình ảnh ấy vẫn thiêu đốt tâm trí cô.
Thang máy vẫn tiếp lục đi lên, xung quanh Vittoria, thế giới trở nên tối tăm, quay cuồng và chao đảo. Cha ơi! Những kỷ niệm với cha ùa về. Lúc này, trong ốc đảo ký ức của mình, Vittoria đang ở bên cha. Ngày đó, Vittoria mới lên 9 tuổi, đang lăn từ trên sườn dồi xuống, đè lên những bông hoa nhung tuyết; tít trên cao, bầu trời Thuỵ Sĩ cũng đang quay.
- Cha! Cha ơi!
Bên cạnh Vittoria, Leonardo Vetra đang cười, khuôn mặt rạng ngời hạnh phúc.
- Chuyện gì vậy, thiên thần của cha?
- Cha, - Cô cười khúc khích, xà vào lòng ông. - Cha hỏi con xem có chuyện gì đi!
- Nhưng trông con hạnh phúc lắm, con yêu ạ. - Tại sao ta phải hỏi con câu đó?
- Thì cha cứ hỏi con xem nào.
Ông nhún vai.
- Chuyện gì vậy?
Cô bé lập tức phá lên cười. - Vật chất là gì?(1) Mọi thứ đều là vật chất! Đất đá! Cây cối! Nguyên tử! Thậm chí cả thú ăn kiến nữa! Mọi thứ đều là vật chất!
Ông cười.
- Con tự nghĩ ra câu chuyện cười này đấy à?
- Thông minh phải không cha?
- Anhxtanh bé nhỏ của cha.
Cô bé chau mày.
- Ông ấy có mái tóc thật ngớ ngẩn. Con nhìn thấy ảnh Anhxtanh rồi.
- Nhưng ông ấy có cái đầu thông minh. Cha đã kể cho con nghe về những gì ông ấy chứng minh được, phải thế không?
Cô bé tròn mắt sợ hãi.
- Cha! Không. Cha hứa rồi mà!
- E=mc2! - cha thọc lét Vittoria. - E=mc2!
- Đừng nhắc đến toàn học! Con đã nói rồi mà! Con ghét môn toán!
- Thế thì cha mừng lắm. Vì con gái không được phép theo đuổi toán học.
Vittoria đột ngột ngừng lời:
- Con gái không được học toán?
- Đương nhiên rồi. Ai cũng biết điều đó. Con gái chỉ chơi với búp bê thôi, còn con trai học toán. Con gái thì bị cấm không được học toán. Thậm chí cha còn không được phép nói chuyện với các cô bé về toán nữa kia.
- Gì cơ! Điều đó không công bằng!
- Nguyên tắc là nguyên tắc. Đã là con gái thì không được học toán.
Vittoria thẫn thờ:
- Nhưng chơi búp bê chán chết đi được!
- Cha rất tiếc, - Ông nói - Cha có thể giảng giải cho con về toán học, nhưng nhớ bị bắt gặp… - Ông nhìn những quả đồi vắng vẻ xung quanh với vẻ đầy lo lắng.
Vittoria cũng đưa mắt nhìn một lượt:
- Thôi được, - cô bé thì thầm, - Thế thì cha nói thầm cho con nghe vậy.
Chuyển động của thang máy làm cô gái giật mình. Vittoria mở choàng mắt. Cha đã biến mất.
Thực tại ập tới, những móng vuốt buốt giá của nó quắp lấy cô gái. Cô nhìn sang Langdon. Thái độ quan tâm đầy chân thành trong ánh mắt anh khiến cô gái cảm thấy ấm áp như đang được một thiên thần che chở, đặc biệt là khi phải ở gần một con người lạnh lẽo như Kohler.
Một ý nghĩ bắt đầu thiêu đốt tâm trí Vittoria.
Phản vật chất đang ở đâu?
Chỉ một tích tắc sau, họ đã có câu trả lời, một câu trả lời thật đáng sợ.
Chú thích:
(1) What s the matter? - ở đây Vittoria chơi chữ. Trong tiếng Anh What s the matter? vừa mang nghĩa Có chuyện gì vậy? Vừa mang nghĩa Vật chất là gì? (matter: vật chất).


- Maximilian Kohler. Xin ông vui lòng gọi về văn phòng ngay lập tức!
Ánh nắng mặt trời rực rỡ hắt thẳng vào mắt Langdon khi cánh cửa thang máy mở ra ngay ở lối vào chính. Tiếng loa chứa kịp tắt thì các thiết bị điện tử trong xe lăn của Kohler đã đồng loạt nhấp nháy và kêu bíp bíp. Máy nhắn tin. Điện thoại. Thư điện tử.
Kohler ngỡ ngàng đưa mắt nhìn những ánh đèn đang chớp nháy liên tục. Giám đốc đã xuất hiện trở lại, và giờ đã ở trong vùng phủ sóng.
- Giám đốc Kohler, xin hãy gọi ngay về văn phòng.
Nghe tên mình được xướng lên trên hệ thống hỗ trợ thiết bị cá nhân, Kohler giật mình.
- Ông ta ngẩng lên nhìn với vẻ bực bội, rồi lập tức chuyển sang lo lắng. Kohler bắt gặp ánh mắt của Langdon, và của cả Vittoria.
Cả ba đều sững sờ trong giây lát. Bầu không khí căng thẳng giữa họ lập tức bị xua tan bởi một mối lo chung.
Kohler rút điện thoại di động ở tay ghế ra. Ông ta quay số nội bộ và cố kìm một cơn ho khác. Vittoria và Langdon cùng chờ đợi.
- Giám đốc… Kohler đây! - ông vừa nói vừa điều khiển xe lăn - Đúng rồi. Tôi ở dưới lòng đất, ngoài vùng phủ sóng. - Ông ta lắng nghe, đôi mắt màu xám mở to. - Ai thế? Được, nối máy đi.
Im lặng một lúc.
- Xin chào. Tôi là Maximilian Kohler, giám đốc của CERN. Tôi đang nói chuyện với ai đây?
Vittoria và Langdon đứng im trong khi Kohler nghe điện thoại.
- Thật không khôn ngoan khi đề cập chuyện này trên điện thoại. - cuối cùng Kohler cất giọng. - Tôi sẽ đến đó ngay lập tức.
Ông ta ho rũ rượi.
- Gặp tôi… tại sân bay Leonardo Da Vinci. 40 phút nữa. - Hơi thở của Kohler có vẻ yếu dần. Ông ta giảm dần cơn ho và gần như cố gắng lắm mới thốt ra mấy từ - Tìm cái hộp ngay đi… tôi đang đến đây. - Rồi ông ta tắt máy.
Vittoria chạy đến bên Kohler, nhưng Kohler không thể nói được nữa. Langdon đứng nhìn Vittoria rút máy điện thoại cầm tay ra để gọi cho trạm xá của CERN. Langdon thấy mình giống một con tàu đang ở vùng ngoại vi của cơn bão… chao đảo, tròng trành nhưng hoàn toàn vô cảm.
Gặp tôi… tại sân bay Leonardo Da Vinci. Lời nói của Kohler vẳng lại.
Những bóng ma của hồ nghi lởn vởn trong đầu Langdon suốt buổi sáng hôm nay bỗng biến thành một hình ảnh rõ nét. Giữa dòng xoáy mịt mùng của những sự kiện rối rắm này, anh thấy một cánh cửa vừa hé ra trong tâm trí… như thể một ngưỡng cửa bí mật nào đó vừa được chạm đến. Biểu tượng hai chiều đối xứng. Nhà khoa học/ linh mục bị giết hại. Phản vật chất. Và bây giờ… là mục tiêu Sân bay Leonardo Da Vinci có thể là một đầu mối. Trong phút chốc, Langdon hiểu ra vấn đề. Anh đã tin chắc, không còn chút hồ nghi nào nữa.
5 kiloton Phải có ánh sáng...
Hai nhân viên y tế được trang bị đầy đủ, mặc quần áo bờ-lu chạy vào. Họ quỳ xuống bên Kohler, chụp mặt nạ ôxy lên mặt ông ta. Các nhà khoa học trong hành lang lùi cả lại.
Kohler hít hai hơi dài rồi kéo mặt nạ sang bên, và dù đang hổn hển vẫn ngước lên nhìn Vittoria và Langdon.
- Rome!
- Rome? - Vittoria hỏi lại. - Phản vật chất đang ở Rome? Ai gọi vậy?
Khuôn mặt Kohler méo xệch, đôi mắt xám giàn giụa nước mắt.
- Lính gác Thuỵ… - Chưa nói hết câu, ông giám đốc đã nghẹn thở, và nhân viên y tế lập tức chụp mặt nạ lên mặt Kohler. Khi hai nhân viên y tế chuẩn bị đẩy cáng đi, Kohler với lấy cánh tay Langdon.
Langdon gật đầu. Anh hiểu.
- Đi đi, Kohler khò khè thở dưới mặt nạ. - Đi đi… gọi cho tôi…
Hai nhân viên y tế đẩy ông ta đi.
Vittoria đứng đó, sững sờ nhìn giám đốc của CERN đang được hai nhân viên y tế đưa đi. Rồi cô quay sang nhìn Langdon.
- Rome ư, Nhưng… liên quan đến lính gác Thuỵ Sĩ nghĩa là sao?
Langdon đặt tay lên vai cô gái, gần như thì thào.
- Lính gác Thuỵ Sĩ - Anh nói - Những người đã thề sẽ bảo vệ toà thánh Vatican.


Chiếc máy bay X-33 gầm rú rồi cất cánh, nhằm thẳng về phía thành Rome. Trong máy bay, Langdon ngồi im lặng. 15 phút vừa qua quả là hỗn độn. Giờ đây, sau khi đã giảng giải sơ qua cho Vittoria về hội Illuminati và mục tiêu chống giáo hội của họ, anh bắt đầu nhận thức rõ mức độ trầm trọng của tình hình.
Mình đang làm cái quái quỷ gì thế nhỉ? Langdon băn khoăn. Đáng lẽ lúc này thấy có cơ hội thì phải quay về nhà ngay mới phải chứ? Tuy nhiên, anh biết chẳng có cơ hội nào cả.
Lí trí của Langdon đang giục giã, thôi thúc anh quay về Boston. Nhưng sự tò mò mang tính học thuật đã lấn át thói quen cẩn trọng trong anh. Tất cả những gì anh vốn tin tưởng về sự tan rã của hội Illuminati bỗng chốc đều sai toét. Một phần, anh muốn đi tìm bằng chứng để khẳng định cho chắc chắn. Và còn cả lương tâm nữa. Kohler thì ốm yếu, Vittoria thì đơn thương độc mã.
Langdon biết rằng kiến thức của anh về hội Illuminati có thể giúp họ phần nào. Và trách nhiệm đạo đức không cho phép anh rời khỏi nơi này.
Còn có một lý do nữa. Dù Langdon thấy xấu hổ vì phải thừa nhận điều này, nhưng khi nghe nói đến vị trí của phản vật chất, mối quan tâm trước nhất của anh không phải là sự bình an của những cư dân thành Vatican, mà là một thứ khác.
Nghệ thuật.
Cái nôi của những kiệt tác nghệ thuật vĩ đại nhất thế giới đang bị đe doạ bởi một quả bom hẹn giờ. Bảo tàng Vatican chứa trên 60.000 hiện vật vô giá trong 1.407 căn phòng - những tác phẩm của Michelangelo, Da Vinci, Bernini, Botticelli. Langdon băn khoăn không hiểu người ta có kịp sơ tán những kiệt tác này không. Anh biết điều đó là không thể. Có nhiều hiện vật điêu khắc nặng hàng tấn. Đấy là chưa kể đến nhũng công trình kiến trúc vô cùng quý giá - nhà nguyện Sistine, đại thánh đường St. Peter, những dãy cầu thang xoáy nổi tiếng của Michelangelo dẫn tới viện bảo tàng Vaticano - những bằng chứng vô giá về tài năng sáng tạo của con người. Langdon tự hỏi không biết còn bao lâu nữa thì cái hộp sẽ nổ tung.
- Cám ơn ông đã đi cùng tôi, - Vittoria khẽ nói.
Tạm ngắt dòng suy nghĩ miên man của mình, anh ngước mắt lên. Vittoria đang ngồi đối diện anh, ở dãy ghế bên kia lối đi.
Mặc dù dưới ánh sáng nhợt nhạt của đèn huỳnh quang trong khoang máy bay, cô gái vẫn toát lên vẻ điềm tĩnh - một vẻ đẹp dịu dàng đầy quyến rũ. Hơi thở của cô lúc này đã trở nên sâu hơn, dường như khả năng chế ngự bản thân đã trở lại trong Vittoria… tình thương cha đã biến thành nỗi khao khát muốn báo thù và giành lại công lý.
Không có thời gian để thay quần áo, Vittoria vẫn mặc nguyên quần soóc và chiếc áo không tay. Đôi chân rám nắng của cô đang nổi da gà vì lạnh. Theo bản năng, Langdon cởi áo khoác và đưa cho Vittoria.
- Hiệp sĩ theo phong cách Mỹ? - Cô đón lấy chiếc áo, đôi mắt ánh lên vẻ biết ơn.
Máy bay xóc nẩy lên khi vượt qua một vùng không bằng phẳng, khiến Langdon thoáng cảm thấy e sợ. Không có cửa sổ, bên trong cabin thật ngột ngạt. Langdon cố gắng tưởng tượng rằng mình đang ở trên một cánh đồng rộng thênh thang. Rồi anh nhận thấy rằng ý nghĩ ấy thật nực cười. Bóng tối đặc quánh.
Langdon cố xua những ký ức ấy ra khỏi tâm trí. Đã lâu lắm rồi.
Vittoria nhìn anh.
- Ông có tin vào Chúa không, ông Langdon?
Câu hỏi khiến anh giật mình. Vẻ chân thật trong giọng nói của cô gái còn tác động mạnh mẽ hơn bản thân câu hỏi. Mình có tin vào Chúa không nhỉ? Anh đã hy vọng rằng câu chuyện để giết thời gian trong chuyến bay này sẽ xoay quanh một chủ đề khác nhẹ nhàng hơn.
Một sự thách đố về tâm linh, Langdon thầm nghĩ. Đó là biệt danh mà bạn bè đặt cho anh. Mặc dù đã rất nhiều năm Langdon nghiên cứu về tôn giáo, nhưng anh không theo bất kỳ tín ngưỡng nào.
Anh tôn trọng sức mạnh của đức tin, tính hướng thiện của các giáo hội, sức mạnh mà tôn giáo mang lại cho con người… Nhưng trong anh, sự hoài nghi về mặt học thuật vẫn còn rất lớn, và niềm tin thực ra lại là một trở ngại đối với những lập luận lôgíc.
- Tôi muốn tin lắm chứ, - anh đáp.
Câu trả lời của Vittoria không hề có hàm ý đánh giá hay thách thức:
- Vậy tại sao ông lại không tin?
Anh khẽ cười:
- Ôi, tin được cũng không phải dễ. Để có đức tin thì người ta phải tin vào rất nhiều thứ, phải tin đủ loại phép màu - ví dụ như sự Thụ thai trinh tiết và sự can thiệp của Chúa trời. Lại còn phải tuân theo vô số thứ chuẩn mực. Kinh thánh, Kinh Koran, Kinh Phật… tất cả đều có những tín điều gần giống nhau - và cả những hình phạt cũng giống nhau. Theo tất cả những loại kinh đó thì tôi sẽ bị đày xuống địa ngục nếu không chịu tuân thủ những tín điều ấy. Tôi không thể tưởng tượng được rằng lại có một vị Chúa nào muốn hành xử kiểu đó.
- Tôi hy vọng là ông sẽ không cho phép sinh viên của mình né tránh câu hỏi một cách tai quái như thế.
Lời nhận xét này khiến Langdon ngỡ ngàng:
- Gì cơ?
- Ông Langdon, tôi không hỏi là ông có tin vào những gì mà con người nói về Chúa hay không. Tôi chỉ hỏi là ông có tin rằng có Chúa hay không thôi, hai câu hỏi này khác nhau đấy. Kinh thánh là những câu chuyện… là những truyền thuyết và những nỗ lực của nhân loại để thoả mãn niềm khát khao hiểu biết về ý nghĩa của cuộc sống. Tôi không yêu cầu ông nhận xét những thứ đó. Tôi chỉ muốn biết ông có tin là có Chúa hay không thôi. Khi nằm dưới bầu trời đầy sao, ống có bao giờ cảm nhận được sự hiện điện của đấng tối linh không? Lúc ấy thâm tâm ông có mách bảo ông rằng bầu trời này là do chính tay Chúa tạo ra hay không?
Langdon đắn đo suy nghĩ một lúc.
- Tôi hơi tọc mạch, - Vittoria xin lỗi.
- Không, tôi chỉ…
- Chắc chắn là ông đã từng thảo luận vấn đề đức tin trong các giờ dạy của mình.
- Rất thường xuyên.
- Và ông đóng vai người phản biện, tôi nghĩ vậy. Luôn luôn khơi gợi để sinh viên tiếp tục tranh luận.
Langdon mỉm cười.
- Hẳn cô cũng là giáo viên.
- Không, nhưng tôi học được từ một người thầy. Cha tôi có đủ lập luận để cho rằng Mobius Strip có hai mặt.
Langdon bật cười, hình dung tác phẩm tài tình của Mobius Strip - một vòng tròn xoắn bằng giấy, về mặt kỹ thuật chỉ có một mặt. Lần đầu tiên Langdon nhìn thấy hình ảnh đơn diện ấy trong tác phẩm của M. C. Escher.
- Tôi có thể hỏi cô một câu không, thưa cô Vetra?
- Hãy gọi tôi là Vittoria. Gọi là cô Vetra nghe già quá.
Anh thở dài, đột nhiên cảm thấy mình già:
- Vittoria, tên tôi là Robert.
- Ông đang định đưa ra một câu hỏi.
- Đúng thế. Là một nhà khoa học, và là con gái của một linh mục Cơ đốc giáo, cô nghĩ gì về tôn giáo?
Vittoria ngừng lại, đưa tay gạt một lọn tóc đang xoà vào mắt:
Tôn giáo cũng như ngôn ngữ và quần áo. Chúng ta bị cuốn hút bởi những nghi thức do chính chúng ta tự đặt ra. Cuối cùng, chúng ta đều tuyên bố một điều, rằng cuộc sống có ý nghĩa, rằng chúng ta phải biết ơn nguồn sức mạnh đã tạo ra chúng ta.
Langdon nghi ngờ.
- Vậy ý của cô là tuỳ thuộc vào nơi sinh mà người ta sẽ trở thành tín đồ Hồi Giáo hay Thiên Chúa giáo?
- Chẳng phải đó là điều hiển nhiên hay sao? Hãy nghĩ đến việc truyền giáo trên thế giới mà xem.
- Vậy đức tin là ngẫu nhiên?
- Không hề. Đức tin có tính toàn cầu. Và mỗi chúng ta có những cách hiểu khác nhau mà thôi. Một số người cầu nguyện chúa Giê-su, một số thì hành hương đến thánh địa Mecca, còn những người khác thì lại nghiên cứu các hạt nhỏ hơn nguyên tử. Cuối cùng, tất cả chúng ta đều tìm đến với chân lý, chân lý đó lớn lao hơn chúng ta rất nhiều.
Langdon thầm ước ao, giá sinh viên của anh cũng có thể diễn đạt gẫy gọn như vậy. Quỷ thật, ước gì chính anh cũng có khả năng diễn đạt rõ ràng như thế.
- Thế còn Chúa? - Anh hỏi. - Cô có tin vào Chúa không?
Vittoria im lặng hồi lâu.
- Khoa học cho tôi biết rằng Chúa chắc chắn tồn tại. Trí tuệ thì mách bảo tôi rằng tôi sẽ không bao giờ hiểu hết được Chúa. Còn trái tim tôi mách bảo rằng không cần phải cố gắng tìm hiểu để làm gì.
Thế có nghĩa là sao? Anh thầm băn khoăn:
- Vậy cô tin rằng quả thật là có Chúa, nhưng chúng ta sẽ không bao giờ hiểu được ông ta?
- Bà ta chứ, - cô gái mỉm cười. - Những người thồ dân Mỹ nói đúng đấy.
Langdon cười tủm tỉm:
- Mẹ Trái Đất.
- Đúng thế đấy. Hành tinh này là một thực thể sống. Tất cả chúng ta là những tế bào với những mục đích khác nhau. Và chúng ta tương tác với nhau, phục vụ lẫn nhau, phục vụ cho một tổng thể.
Nhìn Vittoria, Langdon thấy trong lòng dâng trào một niềm xao xuyến, một cảm giác đã từ lâu lắm rồi không xuất hiện trong trái tim anh. Đôi mắt cô gái ánh lên vẻ tinh anh láu lỉnh… và giọng nói thật thuần khiết khiến anh bị cuốn hút.
- Ông Langdon, tôi có thể hỏi ông một câu khác được không?
- Robert, - anh nói. Gọi là ông Langdon nghe già quá. Má mình già thật rồi!.
- Xin lỗi vì câu hỏi của tôi có vẻ hơi tọc mạch. Robert này, vì sao anh lại nghiên cứu về Illuminati?
Langdon đăm chiêu.
- Thực ra là vì tiền.
Vittoria lộ vẻ thất vọng.
- Tiền ư? Anh muốn nói đến thù lao tư vấn?
Langdon bật cười, cô gái đã hiểu nhầm.
- Không. Tiền là tờ tiền một mặt ấy! - Anh thò tay vào túi quần và lôi ra một ít tiền, tìm tờ 1 đô la. - Tôi bị cuốn hút bởi hội kín này khi biết rằng trên tờ tiền giấy của nước Mỹ có biểu tượng của hội Illuminati.
Mắt Vittoria nheo lại, rõ ràng là đang suy xét xem câu trả lời này có nghiêm túc hay không.
Langdon đưa cho cô tờ tiền.
- Hãy xem mặt sau. Xem dấu triện lớn bên trái.
Vittoria lật tờ bạc 1 đô la.
- Anh muốn nói đến hình Kim tự tháp?
- Kim tự tháp. Cô có biết Kim tự tháp có ý nghĩa gì trong lịch sử nước Mỹ không?
Vittoria nhún vai.
- Chính xác, - Langdon nói - Hoàn toàn chẳng có nghĩa gì.
Vittoria nhíu mày.
- Vậy tại sao nó lại là biểu tượng trung tâm của Dấu triện lớn?
- Một bí ẩn của lịch sứ. - Langdon nói - Kim tự tháp là một biểu tượng huyền bí đại diện cho sự hội tụ hướng lên trên, về phía cội nguồn của Sự tỏa sáng. Cô có nhìn thấy gì ở trên đỉnh Kim tự tháp không?
Vittoria ngắm kỹ tờ tiền giấy trên tay:
- Một con mắt bên trong hình tam giác.
- Nó được gọi là hình ba cạnh. Cô đã từng nhìn thấy hình con mắt bên trong tam giác ở đâu chưa?
Vittoria im lặng một lúc.
- Thực sự là rồi, nhưng tôi không dám chắc…
- Biểu tượng này được được trang trí tại tất cả các tụ điểm của hội Tam Điểm trên khắp thế giới.
- Biểu tượng này là của hội Tam Điểm?
- Thực ra thì không phải thế. Đó là hội Illuminati. Họ gọi biểu tượng này là "Tam giác toả sáng". Đó chính là tôn chỉ về một cuộc khai sáng mà họ muốn thực hiện. Con mắt biểu thị khả năng thâm nhập và quan sát của Illuminati. Tam giác lấp lánh đại diện cho sự khai sáng. Và hình tam giác cũng là một chữ cái Hy Lạp có tên gọi là Delta, - biểu tượng toán học của…
- Sự đổi thay. Sự chuyển dịch.
Langdon mỉm cười.
- Tôi quên mất rằng mình đang nói chuyện với một nhà khoa học.
- Vậy anh nói dấu triện lớn của nước Mỹ biểu trưng cho lời kêu gọi của phong trào khai sáng?
- Một vài người gọi đó là Trật tự thế giới mới.
Vittoria giật mình. Cô nhìn kỹ lại tờ tiền giấy:
- Chữ viết dưới hình Kim tự tháp nói rằng Novus… Ordo…
- Novus Ordo Seclorum, - Langdon ngắt lời. - Nghĩa là Trật tự trần thế mới.
- Trần thế gắn với phi tôn giáo?
- Phi tôn giáo. Cụm từ này không những miêu tả rõ ràng mục tiêu của Illuminati, mà còn trắng trợn đối lập với cụm từ bên cạnh. Chúng ta tin vào Chúa.
Vittoria có vẻ bối rối.
- Nhưng làm thế nào mà tất cả những biểu tượng này lại xuất hiện trên đồng tiền mạnh nhất thế giới được?
- Đa số các học giả cho rằng đó là do Phó Tổng thống Henry Wallace. Ông ta là một nhân vật cấp cao trong hội Tam Điểm và chắc chắn có liên quan đến hội Illuminati. Chưa ai có thể khẳng định rằng ông ta cũng là một thành viên hay chỉ vô tình chịu ảnh hưởng của Illuminati. Nhưng chính Wallace là người đã bán thiết kế dấu triện lớn cho tổng thống.
- Bằng cách nào vậy? Tại sao Tổng thống lại đồng ý…
Tổng thống lúc bấy giờ là Franklin D. Roosevelt. Wallace nói đơn giản với ông ta rằng Novus Ordo Seclorum nghĩa là "Công cuộc cải cách mới"(1).
Vittoria càng nghi ngờ:
- Và Roosevelt không để ai khác xem lại biểu tượng trước khi đưa Bộ Tài chính in?
- Không cần thiết. Ông ta và Wallace như anh em trong nhà.
- Anh em?
Xem lại sách lịch sử đi, - Langdon vừa cười vừa nói - Franklin D. Roosevelt là một nhân vật nổi tiếng của hội Tam Điểm.
Chú thích:
(1) New Deal (Thời kỳ cải cách mới): Chương trình cải cách kinh tế xã hội vào những năm 1930 nhằm chấm dứt cuộc Đại suy thoái do Tổng thống Franklin D. Roosevelt đưa ra.



***Xem trang:
[1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15][16][17][18][19][20]
[21][22][23][24][25][26][27][28][29][30][31][32][33][34][35][36][37][38][39][40]
[41][42][43][44][45][46][47][48][49][50][51][52]

TOP WAP WORLDWIDE


mobiV trang ch

© GIAITRI102.TK
Thanks to XTGEM

Pair of Vintage Old School Fru