“Có đây nhưng chỉ dùng cho hai người thôi.”
“Như vậy, tôi sẽ thay đổi chương trình là không đi đâu nữa. Chúng ta có kịp thời gian đi đến trại giam Hereford để thăm tù nhân không?”
“Hoàn toàn kịp.”
“Chúng ta cùng đi? Watson, tớ sợ cậu buồn nhưng chỉ sau hai giờ tớ sẽ quay về đây.”
Tôi tiễn họ ra bến xe. Sau đó đi bách bộ dọc các đường phố của thị trấn. Rồi quay về khách sạn, tôi nằm xuống salon và lấy cuốn tiểu thuyết ra đọc. Nhưng cuốn sách không ăn nhập với câu chuyện đáng thương đang hiện ra trước mắt tôi. Tôi
nhận thấy tất cả mọi ý nghĩ của mình lúc này đều quay về thực tại. Tôi ném cuốn sách vào góc phòng và thử ôn lại trình tự, suy luận về những sự kiện. Cứ cho những lời khai của chàng thanh niên kia là đúng đi, thì liệu có con quỷ nào lọt vào khoảnh khắc ngắn ngủi giữa lúc chàng trai đi khỏi và chạy lại với tiếng kêu của người cha. Ai vào đây? Điều này thật là kinh khủng, đáng sợ. Tôi là bác sỹ, công việc sẽ được rõ ràng hơn, nếu tôi đưa xem xét những vết thương. Tôi gọi điện và đề nghị cung cấp cho tôi tất cả những số liệu và kết quả của cuộc giải phẫu giám định đầy đủ nhất.
Trong bản kết luận của nhà giải phẫu cho biết: xương đỉnh phía sau và phần trái của xương chẩm bị vỡ do một cú giáng rất mạnh bằng một vũ khí không nhọn. Tôi tự sờ lên đầu mình để kiểm tra, không còn nghi ngờ gì nữa, cú đánh như vậy chỉ có thể thực hiện từ phía sau lưng nạn nhân. Điều này sẽ biện hộ phần nào cho bị cáo, vì trong lúc cãi nhau người ta nhìn thấy anh ta đứng đối diện với người cha: Cần phải nói cho Holmes biết điểm này. Tôi nhớ đến từ "a rat", có ý nghĩa gì nhỉ. Trong trường hợp này thì không phải là lời nói mê. Con người trước lúc chết vì bị đánh bất ngờ, không bao giờ nói mê cả. Chẳng lẽ, ông ta muốn giải thích tại sao ông ta chết?
Ông ta muốn nói điều gì? Tôi cố gắng hết sức để tìm ra một lời lý giải thích hợp. Tôi nhớ lại trường hợp chiếc áo xám ma quỷ. Nếu đúng như vậy thì có một kẻ thứ ba đã bỏ quên chiếc áo khi bỏ chạy và liều lĩnh quay lại lấy ngay sau lưng cậu con trai, cách cậu ta chỉ 20 bước chân. Toàn bộ câu chuyện này là một vấn đề khó hiểu và khó tin!
Lời nhận xét của Lestrade không làm cho tôi kinh ngạc, nhưng tôi tin vào tầm nhìn xa trông rộng của Holmes nên tôi không mất hy vọng. Đến lúc này tôi có cảm giác là Holmes đã tóm được một vài chi tiết để củng cố lương tâm của mình về sự trong trắng, vô tội của James.
Khi Holmes về thì trời đã tối từ lâu. Anh đi một mình vì Lestrade nghỉ lại ngoài thành phố.
“Phong vũ biểu vẫn chưa chịu hạ tí nào.” Anh ngồi xuống và nói “Chỉ cầu sao cho trời đừng có mưa vào lúc chúng mình chưa đến nơi xảy ra án mạng? Con người cần phải dồn sức lực, trí tuệ và nhiệt tình vào công việc nhân đạo. Thật lòng mà nói tớ cũng chưa hứng thú bắt tay ngay vào công việc vì tớ rất mệt sau một huyến đi xa như vậy. Tớ đã gặp anh chàng McCarthy rồi.”
“Gặp anh ta, cậu có hiểu thêm gì không?”
“Không có gì mới cả.”
“Sự việc không sáng sủa à?”
“Tuyệt nhiên không. Lúc đầu tớ có ý nghĩ là anh ta đã biết rõ họ tên kẻ sát nhân, nhưng muốn giấu. Đến giờ thì tớ khẳng định là chính anh ta cũng đang thắc mắc như mọi người khác. McCarthy không phải là người khôn ngoan cho lắm, song rất dễ thương. Tớ có cảm nghĩ anh ta là người tốt.”
“Tôi không tán thành quan điểm của anh ta,” tôi nhận xét “Nếu đó là sự thật thì tại sao anh ta không chịu cưới cô tiểu thư Turner kiều diễm kia làm vợ.”
“Cũng vì thế mà xảy ra câu chuyện đáng tiếc! Anh ta yêu tiểu thư Turner chân thành tha thiết, và say đắm. Nhưng cậu thử nghĩ xem? Anh ta đã làm gì cách đây hai năm, khi còn là một thằng con nít mới lớn, lúc ấy tiểu thư Turner đang học ở
trường nội trú, cậu biết không? Thằng ngốc ấy bị rơi vào tay một cô gái bán hàng ở Bristol và dại đột đăng ký kết hôn với cô ta. Về chuyện này thì không một ai biết cả. Cậu thử tưởng tượng xem, đối với anh ta thật là đau đớn khi phải nghe hoài những lời trách móc của người cha! Nỗi tuyệt vọng bao trùm, ám ảnh anh ta, khi anh ta giang hai tay lên trời cầu cứu để trả lời đề nghị của cha anh ta là kết hôn với tiểu thư Turner. Mặt khác, anh ta hết khả năng tự bào chữa rồi, và người cha, theo mọi người nói là kẻ hẹp hòi, đố kỵ, sẽ đuổi cậu ta ra khỏi nhà nếu biết được tất cả sự thật. Chàng thanh niên đã sống với người vợ của mình ở Bristol trong ba ngày cuối cùng, nhưng người cha không biết cậu ta ở đâu. Hãy ghi nhớ kỹ điểm ấy.
Điều này rất quan trọng. Trong cái rủi lại có cái may. Cô bán hàng khi nghe tin chồng mình bị kết tội nặng và có thể không lâu sẽ bị treo cổ nên đã bỏ anh ta ngay lập tức. Cô ta tự thú nhận trong một bức thư gửi cho chồng là từ lâu cô ta đã có một người chồng chính thức khác ở Bermuda; cô ta trắng trợn tuyên bố giữa cô ta và James McCarthy không hề có sự ràng buộc nào hết. Tớ nghĩ tin ấy phần nào đền bù nỗi đau khổ của cậu Mark McCarthy.”
“Nếu cậu ấy vô tội thì ai là thủ phạm gây án mạng?”
“Đúng, kẻ giết người là ai? Tớ lưu ý cho cậu hai điểm sau đây: thứ nhất - Người đã khuất cần gặp ai đó bên hồ, người đó không thể là con trai ông ta được, bởi người con trai đã đi khỏi không biết bao giờ mới về. Thứ hai - Người cha gọi "Kô..ê..." trước khi ông tà nhìn thấy con trai. Đó là nút chính, nhờ nó mà chúng ta làm thấy đổi được tình thế. Còn bây giờ hãy nói đến những sáng tác mới của George Meredith nếu như cậu thích. Hay để những công việc thứ yếu khác đến mai.”
Đúng như Holmes mong muốn, hôm sau trời không mưa.
Sáng nay trời quang đãng không một bóng mây. Vào lúc 9 giờ Lestrade đến đón chúng tôi đi trên cỗ xe ngựa, chúng tôi tiến về trang trại Hatherley và từ đó đi bộ đến hồ Boscombe.
“Có một tin quan trọng,” Lestrade nói “nghe nói là ngài Turner ốm nặng đến nỗi khó lòng mà qua được.”
“Hình như ông ấy già lắm phải không?” Holmes hỏi.
“Khoảng 60 tuổi, nhưng ông ta mất sức từ ngày ở đoàn tìm kiếm và từ lâu đã mang bệnh hiểm nghèo. Ông ta là bạn cũ của ngài McCarthy, hơn thế còn là ân nhân nữa. Tôi được biết ngài Turner không lấy tiền thuê trại Hatherley của ngài McCarthy.”
“Ồ! Điều này rất lý thú đấy các vị ạ?” Holmes bỗng reo lên.
“Vâng, ngài Turner giúp đỡ ngài McCarthy bằng mọi biện pháp có thể được. Ở đây mọi người đều nói là ngài Turner đối xử với bạn rất tốt.”
“Sao ngài lại nghĩ thế?! Ngài không lấy làm lạ là ngài McCarthy không giầu có gì mà lại tính đến chuyện cưới cô tiểu thư Turner xinh đẹp - người thừa kế duy nhất gia tài kếch sù cho con trai? Ngài biết rồi đấy ông Turner đâu có chấp nhận cuộc hôn nhân ấy theo như tiểu thư Turner đã nói. Ngài có thể rút ra kết luận gì bằng phương pháp suy diễn.”
“Chúng tôi đã suy diễn và rút ra những kết luận logic nhất.” Lestrade nói và nháy mắt ra hiệu cho tôi “Ngài cứ tiếp tục sử dụng các dữ kiện ấy, nó có thể đi xa chân lý để rơi vào thế giới hão huyền.”
“Sự thật thì bao giờ cũng là sự thật.” Holmels nói “Ngài sử dụng dữ kiện không tốt lắm.”
“Tôi chỉ nhấn mạnh một dữ kiện, mà đối với ngài thì khó hiểu.” Lestrade nói.
“Dữ kiện nào?”
“Là McCarthy cha đón nhận cái chết bi thảm của mình từ McCarthy con, còn tất cả mọi giả thiết khác bác bỏ nó - chỉ là vệt sáng trăng.”
“Nhưng dù sao vệt sáng trăng còn sáng hơn sương mù?” Holmes vừa cười vừa nói “Nếu tôi không nhầm thì bên trái kia là trang trại Hatherley.”
“Đúng, chính nó.”
Đó là một ngôi nhà hai tầng khang trang đầy đủ tiện nghi, mái bằng đá, rêu bám từng mảng lớn ở mặt tiền sảnh. Những tấm rèm thả xuống bịt kín mít các cửa sổ trông rất ảm đạm; những ống khói đã mấy hôm nay không có khói bay. Những cái đó đã làm cho ngôi nhà trở nên hiu quạnh; dường như án mạng đang phủ lên, đè nén mấy bức tường với tất cả sức phá hoại ghê gớm của nó.
Chúng tôi gọi cửa. Người hầu gái, theo yêu cầu của Holmes, chỉ cho chúng tôi đôi giày của chủ nhân đã mang trong ngày hôm ấy, và đôi giày của cậu con trai đã mang. Holmes ngồi đo từng li từng tí đôi giày; sau đó anh đề nghị người ta dẫn
chúng tôi ra sân, từ đó chúng tôi đi theo đường mòn quanh co uốn khúc dẫn đến hồ Boscombe.
Holmes biến đổi hoàn toàn khi anh lôi mọi người theo những dấu vết bẩn thỉu. Những người đã từng biết ngài thám tử lừng danh ở hẻm Baker, lúc này chắc không thể nhận ra anh được. Anh ta ủ dột, mặt hơi phớt hồng, cặp mắt lấp lánh dưới hàng mi đen chạy dài.
Đầu anh cúi xuống, cặp vai nhô lên, đôi môi cắn chặt: trên cái cổ gân guốc hằn rõ những đường mạch máu xanh. Hai lỗ mũi của anh phồng lên như cặp mũi của những nhà đi săn thú lão luyện.
Anh say mê công việc đến nỗi không trả lời bất cứ câu hỏi nào, hoặc nếu có chỉ nhấm nhẳn cho qua chuyện. Anh đi âm thầm, nhưng rất nhanh theo lối mòn xuyên qua một cánh rừng và đồng cỏ tới hồ Boscombe. Đó là vùng đầm lầy trước kia nay đã khô ráo giống như cả vùng thung lũng. Trên lối mòn, hai bên có
những loại cỏ dại thấp mọc dày xuất hiện những dấu vết dẫm nát. Holmes lúc thì vội vội vàng vàng, lúc thì dừng hẳn lại. Có một lần anh bất thình lình quay lại và đi ngược vài ba bước.
Lestrade và tôi theo dõi anh từng bước. Lestrade thì quan sát với thái độ thờ ơ, khinh khinh ra mặt, còn tôi luôn luôn theo sát Sherlock với sự hứng thú trong lòng, bởi tôi dám khẳng định là mỗi động tác của anh đều dẫn tới một kết cục tốt đẹp.
Hồ Boscombe rộng chừng 50 yards[4], lau sậy bao bọc xung quanh. Nó kéo dài trên ranh giới của trang trại Hatherley và địa hạt của ngài Turner giàu có. Ở phía xa, nơi khu rừng chạy dài đến tận bờ xa tắp, thấp thoáng những ngọn tháp nhọn đỏ
chót. Ở phía Hatherley khu rừng rất rậm rạp, um tùm; chỉ có một khoảng đất hẹp, rộng chừng hai mươi bước là có cỏ dại mọc và một số cây sậy còn sót lại bao quanh. Lestrade chỉ cho chúng tôi chính xác nơi nạn nhân ngã xuống. Mảnh đất chỗ ấy bị dẫm nát đến nỗi tôi dễ dàng nhận ra ngay nơi nằm của người bị giết.
Còn những gì liên quan thì Holmes quan sát rất kỹ lưỡng. Holmes chăm chú nhìn kỹ đám cỏ bị xéo nát. Anh chạy đi chạy lại, sau đó lại gần người bạn đồng hành với chúng tôi:
“Ngài đã làm những gì ở đây?”
“Tôi đã cào xới khắp bãi cỏ, tìm kiếm một loại vũ khí và những chứng cớ khác, nhưng ngài đã thấy đấy...”
“Thôi đủ rồi. Tôi không có nhiều thời giờ! Dấu chân trái của ngài hiện lên khắp nơi. Thậm chí con chuột chù cũng có thể đánh hơi được điều đó. Còn đến chỗ đám lau sậy thì dấu vết biến mất. Nếu tôi đến đây trước khi bị đàn bò dẫm nát thì mọi việc sẽ đơn giản! Những người ra đây đã làm loạn xị ngậu mọi dấu vết xung quanh chỗ nạn nhân chừng 6 hoặc 7 feets[5].”
Holmes lấy kính lúp ra rồi nằm xuống tấm vải không thấm nước để quan sát và thì thầm nói với bản thân mình hơn là nói với chúng tôi.
“Đây là dấu vết của anh chàng McCarthy, anh ta đã đi qua đây hai lần và một lần chạy nhanh đến nỗi vết giầy hầu như khó nhìn thấy, những vết còn lại thì rất rõ. Những dấu vết này khẳng định cho lời khai của anh ta. Chàng thanh niên chạy
đến nhìn thấy cha mình đang nằm gục trên mặt đất. Tiếp theo là những dấu chân của người cha đi lui đi tới. Cái gì thế này? À, dấu vết của báng súng khi người con đứng và dựng súng xuống nghe cha nói. Còn đây nữa? Cái gì nhỉ? Có một người đi rón rén trên đầu các ngón chân! Đây là đôi giày không bình thường, hình như hình vuông?! Hắn đến rồi chuồn khỏi, rồi lại đến, chắc là để lấy chiếc áo. Nhưng hắn từ đâu đến?”
Holmes chạy đi chạy lại quan sát, đôi lúc mất dấu vết, đôi lúc nhìn thấy. Trong lúc đó chúng tôi chưa đi vào bìa rừng, dưới bóng một cây bạch dương to già cỗi, Holmes đã bắt được các dấu vết, anh nhẹ nhàng nằm xuống. Bỗng anh reo lên sung sướng. Holmes nằm yên rất lâu, lật đi lật lại những chiếc lá cây và cành cây khô queo, nhặt bỏ vào phong bì một vật gì đó giống như là bụi đất. Anh thận trọng nhìn qua kính lúp một chiếc vỏ cây, một hòn đá có cạnh không đều nhau. Anh cầm hòn đá lên và ngắm nghía vẻ thỏa mãn, sau đó anh theo lối mòn dẫn đến một con đường ở đây mọi dấu vết bị xóa sạch.
“Hòn đá này quan trọng đấy.” Anh nhận xét khi đã quay lại với giọng nói bình thường “Ngôi nhà xam xám phía bên phải kia có lẽ là nhà của người gác rừng. Tôi sẽ ghé lại chỗ ngài Moran để nói vài lời và viết một bức thư. Rồi chúng ta sẽ về khách sạn trước bữa ăn sáng thứ hai. Hai người cứ đi đến xe ngựa trước, tôi sẽ tới sau.”
Sau 10 phút, chúng tôi về tới thị trấn Ross. Hòn đá nhặt được ở trong khu rừng vẫn nằm trong tay Holmes.
“Vật này có thể sẽ làm cho ngài chú ý, thưa ngài Lestrade.” Holmes chìa hòn đá ra “Đây chính là vũ khí mà kẻ sát nhân đã dùng.”
“Tôi không nhìn thấy vết tích nào cả?!”
“Đúng, không có.”
“Vậy làm sao ngài quả đoán như thế?”
“Vì dưới hòn đá này cỏ vẫn mọc bình thường. Có nghĩa nó nằm chỉ vẻn vẹn có vài ngày. Còn xung quanh không thấy dấu chỗ hòn đá được nhặt lên. Hòn đá này tương xứng với những thương tích. Không có dấu vết của loại vũ khí nào khác.”
“Ai là kẻ sát nhân?”
“Đó là một người cao to, thuận tay trái và bị thọt chân phải. Hắn mang giày đi săn, đế to và mặc bành tô xám. Hút thuốc Ấn Độ bằng tẩu, ở trong túi thì có chiếc dao cùn gấp cán. Có nhiều đặc điểm nữa, nhưng như thế cũng đủ cho chúng ta tìm kiếm.”
Lestrade cười mỉm.
“Đáng tiếc, đến bây giờ tôi vẫn là kẻ hoài nghi.” Ông ta nói “Mọi giả thiết của ngài đều chí lý, nhưng chúng ta cần làm việc với đạo luật của Hoàng gia nước Anh.”
“Chúng tôi sẽ tìm thấy.” Holmes bình tĩnh trả lời “Ngài có cách của ngài, tôi có phương pháp của tôi. Thật tuyệt vời, có thể hôm nay tôi sẽ về London trong chuyến tàu tối.”
“Ngài bỏ dở công việc ư?”
“Không, mọi việc đã sáng tỏ.”
“Bí mật là gì?”
“Chiếc màn bí mật đã được vén lên.”
“Ai là kẻ sát nhân?”
“Kẻ mà tôi vừa mô tả.”
“Nhưng hắn là ai?”
“Ồ, có khó gì đâu, dân cư ở đây không nhiều nhặn gì.”
Lestrade nhún vai:
“Tôi là con người thực tế.” Ông ta nói “Không thể tìm kiếm một người chỉ thọt chân phải và thuận tay trái. Chắc tôi sẽ bị cả vùng Scotland chế nhạo mất thôi.
“Được,” Holmes điềm đạm trả lời “Tôi sẽ cho ngài biết mọi khả năng để tìm ra điều bí mật. Tôi không cần che giấu, còn ngài có lẽ sẽ khám phá ra vụ án khó hiểu này.”
Sau khi từ biệt ngài Lestrade, chúng tôi quay về căn buồng của mình, ở đây bữa ăn sáng thứ hai đã dọn sẵn. Holmes im lặng, trầm ngâm suy nghĩ. Khuôn mặt của anh buồn rười rượi, giống như khuôn mặt của một người rơi vào tình trạng khó giải quyết.
“Hãy nghe đây Watson,” Anh nói, khi người hầu đã dọn xong mọi thứ trên bàn ăn “Cậu ngồi vào kia, tớ sẽ kể cho cậu nghe một số điều tớ biết. Không hiểu tớ phải làm gì bây giờ? Tớ muốn nghe ở cậu một lời khuyên. Cậu hãy hút thuốc đi, tớ sẽ bắt đầu.”
“Nào, kể đi.”
“Trong khi nghiên cứu công việc, tớ nhận thấy có hai điểm trong bản tường trình của anh chàng McCarthy làm tớ chú ý; tớ cho là điểm đó có lợi cho anh ta, còn cậu thì cho là có hại. Thứ nhất là: Người cha đã kêu "Kô..ê..." trước khi nhìn thấy con trai của mình; thứ hai là: cha anh ta nói tới con chuột trong cơn hấp hối.
Cậu nên hiểu, người cha nói lắp bắp vài từ, nhưng người con chỉ nghe được có một. Công cuộc khám phá của chúng ta xuất phát từ hai điểm này. Tớ nghĩ những điều chàng thanh niên khai trên đều đúng với sự thật một trăm phần trăm.”
“Tiếng gọi "Kô..ê..." là gì?”
“Rõ ràng ông ta không gọi con trai. Vì ông nghĩ con ông vẫn ở Bristol. Người con nghe thấy tiếng gọi rất tình cờ. Tiếng "Kô..ê..." để gọi người đã hẹn gặp ông ta. Từ "Kô..ê..." là từ của người Áo, nó chỉ dùng giữa những người Áo với nhau mà thôi. Đó là điều chứng minh xác đáng cho giả thiết rằng, người mà McCarthy hẹn gặp ở hồ Boscombe phải là một người Áo.”
“Nhưng còn chuyện “con chuột cống”?”[6]
Sherlock Holmes lôi trong túi ra tờ giấy gấp làm tư rồi cẩn thận trải nó ra bàn, “Đây là tấm bản đồ bang Victoria.” Anh nói.
“Tối hôm qua tớ đã đánh điện đến Bristol và nhờ họ gửi cho tấm bản đồ này.” Holmes lấy tay che một phần tấm bán đồ “Cậu đọc đi” Anh đề nghị.
“ARAT.”
“Còn bây giờ?” Anh nhấc tay lên.
“BALLARAT”
“Hoàn toàn đúng. Đây chính là từ mà người hấp hối thốt ra, nhưng anh con trai chỉ kịp nghe có hai âm tiết cuối cùng. Nạn nhân cố gượng nói tên kẻ giết người và tên đó là Ballarat.”
“Thật tuyệt diệu!” Tôi thốt lên.
“Không nghi ngờ gì nữa, vòng vây đã khép kín. Chiếc áo choàng màu xám của tên tội phạm là bằng chứng thứ ba. Nhưng điều chưa biết này đã biến mất, và xuất hiện một người Áo mặc bành tô màu xám nào đấy từ Ballarat tới.”
“Sự thể sẽ ra sao?”
“Chắc chắn, hắn là người địa phương ở đây; vì bên cạnh hồ ngoài trang ấp ấy ra, không còn gì nữa. Người lạ không đi đến đấy làm gì.”
“Tất nhiên.”
“Sau đó là cuộc khám nghiệm hiện trường của chúng ta. Trong khi xem xét nền đất, tớ đã phát hiện thêm một số chứng cớ mà tớ đã nói cho lão Lestrade nghe tuy không quan trọng lắm. Những chứng cớ này chỉ có liên quan tới việc mô tả hình dáng kẻ phạm tội mà thôi.”
“Nhưng bằng cách nào mà cậu phát hiện được?”
“Cậu quá quen phương pháp của tớ rồi! Nó dựa trên sự so sánh tất cả dữ kiện không đáng kể.”
“Về tầm vóc của tên sát nhân cậu phán đoán gần đúng dựa nào bước chân, hoặc đôi giày, nhưng cũng có thể dựa trên những dấu vết để lại; phải không?”
“Đúng, một loại giày không bình thường.”
“Sao cậu biết hắn bị thọt?”
“Dấu chân phải không được rõ nhừ dấu chân trái. Bàn chân phải dẫm nhẹ hơn. Tại sao? Chỉ vì hắn bị thọt.”
“Còn chuyện hắn thuận tay trái?”
“Chính cậu đã kinh ngạc với đặc điểm vết thương mà người phẫu thuật mô tả. Nạn nhân bị một cú giáng bất ngờ từ phía sau lưng; nhưng ở bên trái. Ai có thể làm được? Nếu như không thuận tay trái?! Trong lúc hai cha con đang nói chuyện
với nhau, thì thủ phạm núp sau thân cây. Thậm chí hắn còn hút thuốc. Tớ đã tìm thấy tàn thuốc lá, và nhờ khiếu phân biệt các loại thuốc của mình tớ đã xác định được hắn đã hút loại thuốc của Ấn Độ. Cậu biết đấy, tớ đã nghiên cứu về thuốc lá và có viết một bài báo nói về tro của 140 loại thuốc lá khác nhau, kể cả thuốc điếu cũng như thuốc tẩu. Sau khi phát hiện ra tàn thuốc lá, tớ quan sát xung quanh, và tìm thấy mẩu thuốc còn lại mà hắn đã vứt. Đó là loại thuốc của Ấn Độ, sản xuất tại Rotterdam.”
“Còn cái tẩu?”
“Tớ nhận thấy mẩu thuốc không bị ngậm, suy ra hắn đã dùng tẩu. Phần cuối của điếu thuốc bị cắt, nhưng nhát cắt không sắc gọn, mà nham nhở, vì thế tớ quả quyết dao của hắn bị cùn.”
“Holmes,” Tôi nói “Cậu đã giăng xung quanh tên tội phạm một tấm lưới, hắn không thể chui ra được và cậu sẽ cứu thoát chàng thanh niên vô tội kia. Cậu sẽ tháo chiếc nút thòng lọng khỏi cổ anh ta. Tớ đã hình dung được tất cả những dẫn
chứng của cậu đã tụ điểm vào ai rồi. Tên của kẻ giết người là...”
“Ngài John Turner đến.” Người hầu phòng báo, sau khi mở cửa phòng chúng tôi và dẫn người khách vào. Thân hình của kẻ vừa vào thật khác thường, dáng đi chậm chậm, khập khiễng; đôi vai buông xuống làm cho ông trông khắc khổ già nua; còn bộ mặt trông gớm ghiếc và thô tục; tấm thân đồ sộ thì toát lên một
sức mạnh khôn lường của con người kỳ dị ấy. Bộ râu để dài xồm xoàm, mái tóc bạc trắng phủ kín gáy lởm chởm, cặp lông mày rậm đã làm cho ông ta có vẻ kiêu kỳ và mãn nguyện. Mặt ông xám xịt, còn môi và hai cánh mũi thì nhợt nhạt xanh tái. Thoạt nhìn tôi biết ngay ông đã mắc một thứ bệnh kinh niên khó chữa khỏi.
“Mời ngài ngồi.” Holmes đề nghị nhẹ nhàng “Chắc ngài đã nhận được bức thư của tôi?”
“Vâng, người gác rừng đã mang đến. Ngài muốn gặp tôi ở đây để tránh bớt sự lôi thôi.”
“Tôi nghĩ rằng, sẽ có chuyển biến nếu tôi phát biểu tại phiên tòa.”
“Ngài cần tôi ư?”
Turner nhìn chằm chằm vào anh bạn của tôi. Trong đôi mắt mệt mỏi của ông chứa đựng nỗi tuyệt vọng, dường như ông đã đoán được câu trả lời cho câu hỏi của mình.
“Vâng,” Holmes nói nhỏ nhẹ, cái nhìn của anh đã thay cho câu trả lời “Vấn đề là như thế. Tôi đã biết hết câu chuyện về ngài McCarthy rồi.”
Ông già dang hai tay ôm lấy mặt.
“Các ngài hãy làm ơn giúp tôi?” Ông ta kêu lên tuyệt vọng “Tôi sẽ không thể để cho chàng trai kia chết đâu? Tôi sẽ nói hết sự thật trong phiên tòa phúc thẩm.[7]”
“Rất hân hạnh được nghe.” Holmes nói lạnh lùng.
“Từ lâu tôi muốn phơi bày tất cả, nhưng còn đứa con gái thân yêu của tôi. Chuyện này sẽ làm trái tim nó tan nát mất, nó sẽ đau khổ và sẽ không sống nói khi tôi bị bắt.”
“Có thể không xảy ra chuyện đó đâu.” Holmes an ủi.
“Có thể như vậy sao?”
“Tôi không phải là kẻ thừa hành chính thức. Cô con gái của ngài cần sự có mặt của tôi, cho nên tôi phải làm mọi việc vì lợi ích của cô ta. Ngài hiểu cho: chàng McCarthy kia cần được tự do ngay bây giờ.”
“Tôi ở gần cửa địa ngục lắm rồi,” Ông Turner nói “Tôi bị bệnh đái đường đã lâu. Bác sỹ nói không biết tôi có sống được một tháng nữa hay không. Dẫu sao tôi cũng muốn được chết dưới mái nhà của mình, hơn là phải chết trong tù.”
Holmes đứng dậy, đi đến bàn viết cầm cây bút và tờ giấy:
“Ngài hãy kể tất cả những gì đã xảy ra,” Anh đề nghị “Còn tôi viết lại vắn tắt, ngài sẽ ký vào đó và Watson là người làm chứng. Tôi chỉ công bố lời tự thú của ngài trong trường hợp cần thiết nhất thôi, để cứu tính mạng chàng trai McCarthy. Ngược lại tôi hứa với ngài sẽ không dùng biện pháp ấy.”
“Được,” Ông già trả lời “Có lẽ tôi không còn sống đến phiên tòa phúc thẩm[8] đâu. Cho nên điều kiện của ngài không làm cho tôi lo lắng. Tôi chỉ muốn đỡ cho Alice khỏi đòn khủng khiếp. Tôi sẽ kể cho ngài nghe tất cả... việc kéo dài thì lâu nhưng tôi sẽ kể vắn tắt:
.. Ngài chưa được biết tay McCarthy đã khuất đâu. Đó là một con quỷ hiện hình, tôi thề với ngài hắn đúng như thế. Cầu chúa hãy cứu thoát ngài khỏi bàn tay thép dơ bẩn của hắn! Hai chục năm cuối cùng của đời tôi, tôi bị hắn kìm kẹp và chi phối. Hắn đã đầu độc toàn bộ cuộc đời của tôi. Trước hết tôi sẽ kể vì sao tôi lại rơi vào nanh vuốt kìm kẹp của hắn.
Câu chuyện này xảy ra vào đầu những năm 60[9] trong thời kỳ tìm vàng. Thời đó tôi còn là một cậu bé thiếu suy nghĩ, nóng nảy sẵn sàng lao vào bất cứ việc gì. Tôi lọt vào băng của những người xấu và bắt đầu cuộc đời rượu chè be bét. Tôi sống một cuộc sống lang thang nay đây mai đó như một hiệp khách giang hồ. Bọn tôi có sáu người, chúng tôi đã trải qua cuộc đời hoang dã, phóng đãng, ngày này qua tháng khác chúng tôi đột nhập vào các bến xe, nhà ga, chặn đứng từng đoàn xe ở dọc đường để cướp bóc. Lúc ấy người ta gọi tôi là Black Jack ở Ballarat. Bạn bè ngày ấy của tôi cho đến bây giờ vẫn nhớ tôi với cái tên Ballarat.
Hôm đó có một đoàn hộ tống áp tải vàng từ Ballarat đến Melbourne. Chúng tôi đã tổ chức cuộc tấn công, có sáu người áp tải canh giữ xe vàng. Chúng tôi cũng có sáu người. Thế là xảy ra một trận cướp bóc, giết người thật tàn ác và quá khủng khiếp.