Polly po-cket
Không bấm vùng phía trên kẻo mất tiền nhé!

***Thám tử rời sân khấu
"Tôi đã làm việc đó". Tại sao những lời đơn giản ấy lại gây cho ta nỗi xúc động lớn? Đó là câu hỏi tôi tự đặt lúc ngồi ở góc toa tàu, nhìn phong cảnh đơn điệu xứ Essex lướt qua cửa sổ.
Bao nhiêu thời gian đã trôi qua từ cái ngày tôi cũng đi trên con đường này! Bi thương trong cuộc chiến tranh mà tôi vẫn cho là lớn nhất, mặc dù sau này cuộc đại chiến thứ hai tỏ ra dữ dội hơn nhiều, hồi đó năm 1916, tôi tin mình đã là người từng trải! Thực ra, tôi đâu có hiểu bấy giờ cuộc đời tôi mới chỉ bắt đầu.
Hồi ấy, tôi đi mà chưa hiểu rằng sắp gặp một người sẽ có ảnh hưởng lớn đến đời tôi. Tôi đang đi tới nhà một người bạn, John Cavendish, mẹ anh ta vừa tái giá và có một ngôi nhà nghỉ ở nông thôn đặt tên là "Styles Court". Tôi hình dung lại lần đi ấy, niềm vui sắp được nối lại liên hệ với bạn cũ, không hề nghĩ là mình sắp bị cuốn vào những rắc rối của một vụ án bí ẩn.
Vậy mà chính tại Styles mà tôi đã gặp lại Hercule Poirot, con người bé nhỏ kỳ cục mà trước đó tôi đã làm quen ở Bỉ. Tôi còn nhớ mình kinh ngạc chừng nào khi thấy ông tập tễnh đi ngoài phố làng, bộ mặt vẫn điểm bộ ria đặc biệt.
Hercule Poirot! Từ hồi ấy, ông đã là bạn thân nhất của tôi, và chính trong khi cùng ông đuổi bắt một tên sát nhân, mà tôi đã gặp người con gái sẽ trở thành vợ tôi: người dịu hiền nhất, chung thủy nhất, người bạn đời tuyệt vời nhất mà một trang nam nhi có thể mơ ước. Giờ đây nàng đã yên nghỉ trên đất Argentina, để lại tôi thành người cô đơn, buồn chán.
Ôi! Nếu được quay lại quá khứ, bắt đầu lại cuộc đời! Nếu nhờ phép thần kỳ nào tôi được trở lại cái năm 1916, đang đi tới Styles lần đầu!... Từ đó đến nay, biết bao thay đổi! Đã vắng đi bao khuôn mặt thân quen! Chính ngôi nhà đã bị bán đi. John Cavedish đã mất, nhưng bà vợ Mary còn sống, ở đâu đó trong vùng Devon. Laurence cùng vợ và các con sang sống ở Nam Phi. Vâng, thay đổi, thay đổi nhiều.
Chỉ có một điều, kỳ thay, giống lần trước, tôi trở lại Styles để gặp Hercule Poirot.
Mấy hôm trước, tôi rất ngạc nhiên nhận được thư của ông, để địa chỉ từ Styles, vì đã hơn một năm rồi tôi không gặp ông. Lần gặp cuối đó, tôi đã rất buồn phiền, vì Poirot nay đã nhiều tuổi, đi lại khó khăn vì bệnh viêm khớp. Ông đã sang Ai Cập, hy vọng chữa được bệnh, nhưng theo thư ông viết, tình hình vẫn thế. Tuy vậy, giọng thư ông vẫn còn hăm hở...
... Anh có lạ không, khi biết tôi viết thư này từ đâu? Nó gợi cho anh nhiều kỷ niệm, phải không? Vâng, tôi đang ở Styles. Anh hình dung được không, bây giờ ở đó là một nhà trọ cho các gia đình, do một ông cựu đại tá làm chủ, tất nhiên vợ ông ta là tay hòm chìa khóa. Bà ta rất quán xuyến mọi việc, phải cái nói hơi nhiều, làm ông đại tá cũng phát ngán. Tôi mà ở vào địa vị ông ta, tôi sẽ không để như thế!
Tôi đọc quảng cáo họ đăng trên báo, và thế là tôi bỗng muốn trở lại cái nơi tôi đã ở đầu tiên khi tới nuớc Anh. Ở tuổi tôi, ai cũng thích sống lại quá khứ.
Ngoài ra, tôi gặp ở đây một vị huân tước là bạn ông chủ của con gái anh. Ông ta mời gia đình Franklin đến đây ở trong mùa hè. Bây giờ đến lượt tôi lại mời anh tới, thế là gặp nhau cả, rất vui. Vậy thì, anh Hastings thân mến, hãy mau mau tới đi. Tôi đã giữ cho anh một phòng có cả nhà tắm, vì anh biết không, bây giờ Styles Court cũng hiện đại hóa lắm rồi, và đã mặc cả tiền thuê với giá hời nhất.
Vợ chồng Franklin và Judith con gái anh tới đây đã đươc vài ngày. Mọi việc đã thu xếp xong, vậy anh chớ tìm cách thoái thác.
Thân ái
Hercule Poirot
Lời mời thật hấp dẫn, và tôi làm ngay theo lời ông bạn già. Tôi không vướng bận gì. Hai con trai, một đứa đang phục vụ trong Hải quân; đứa kia đã có vợ, lo trông nom cái trang trại của chúng tôi ở Argentina. Một con gái, tên là Grace, lấy chồng là quân nhân thì ở Ấn Độ... con gái út là Judith, chính là đứa tôi thầm cưng nhất, mặc dù chưa hiểu hết tính nết nó. Nó là một đứa con gái bí ẩn, ít nói, quen nghĩ một mình, không hỏi ý kiến ai. Tôi thường buồn phiền vì thái độ của nó, song vợ tôi hiểu nó hơn và bênh che nó, cho rằng không phải Judith không tin cậy, mà chỉ là tính rụt rè của tuổi mới lớn. Tuy nhiên đôi khi bà ấy cũng lo, bà ấy nói tình cảm của Judith quá tập trung, cô đặc, lại ít thổ lộ, nên có thể nguy hiểm. Đôi lúc nó có những cơn mơ màng và cố chấp một cách chua chát. Đổi lại, nó là đứa thông minh nhất trong mấy chị em, nên chúng tôi rất đồng tình để nó học lên tới đại học. Năm ngoái Judith đã tốt nghiệp và nhận làm trợ tá cho một bác sĩ đang chuyên nghiên cứu về những căn bệnh vùng nhiệt đới.
Đôi lúc tôi lo ngại tự hỏi Judith say mê làm việc và tận tụy với ông thầy đến thế phải chăng là có tình cảm riêng tư gì không. Tuy nhiên, thấy quan hệ nghiêm túc giữa thầy và trò, tôi yên tâm. Tôi cho là Judith rất yêu tôi, song ít khi để lộ, thường lại cố tình coi thường những suy nghĩ của tôi mà nó cho là tình cảm và cổ hủ. Thật lòng, tôi có hơi ngại về nó.
Đang nghĩ ngơi lan man thì tàu dừng lại ở ga Styles. À, nơi đây dù sao thì cũng không thay đổi. Thời gian trôi qua, nhưng cái ga xép này vẫn đứng trơ trọi giữa đồng không mông quạnh.
Nhưng khi tắc-xi đưa tôi qua làng, tôi mới nhận ra dấu ấn của thời gian. Gần như không nhận ra được thị trấn cũ nữa. Giờ đây đã có thêm trạm xăng, rạp chiếu bóng, hai khách sạn và những dãy nhà ở cho thuê rẻ tiền.
Xe đi qua cổng nhà Styles Court. Đến đây, đột nhiên tôi lại thấy mình trở lại cái thời xa xưa. Khu vườn vẫn y như cũ, có điều lối đi chính kém được sửa sang, nhiều cỏ dại. Đến lối ngoặt thì nhìn thấy tòa nhà. Bên ngoài không có gì thay đổi, mặt tiền và cửa sổ đã lâu không được sơn phết lại.
Hồi trước tôi đến, cách đây đã nhiều năm, có một bóng phụ nữ đang cúi xuống các bồn hoa. Lần này cũng vậy, và dường như trái tim tôi ngừng đập. Nhưng người phụ nữ đã đứng lên và tiến về phía tôi. Tôi thầm cười trong bụng, vì giữa cô Evelyn Howard khỏe mạnh trước kia và người đàn bà lúc này đang đứng trước mặt tôi, là cả một sự trái ngược. Bà này đứng tuổi, dáng cò lả, tóc xoắn dày và trắng toát, đôi mắt lạnh lùng khác hẳn với thái độ niềm nở mà tôi cho là hơi thái quá. Bà ta vồn vã hỏi:
- Ông là đại úy Hastings có phải không? Trời ơi! Tay tôi đầy đất thế này! Rất mừng là ông đã tới. Chúng tôi nghe nói mãi về ông! Xin giới thiệu: Tôi là bà Luttrell. Vợ chồng tôi chẳng biết tại sao tậu cái nhà này, và bây giờ đang cố thu hiệu quả. Tôi có bao giờ nghĩ lại trở thành chủ trọ! Nhưng xin đại úy nhớ cho rằng kinh doanh là kinh doanh, nên mọi thứ dịch vụ đều phải trả tiền...
Cả hai chúng tôi đều cười, coi như câu nói đùa dí dỏm, nhưng rồi tôi nghĩ điều bà Luttrell nói có thể trở thành sự thật. Phía sau vẻ hồ hởi của chủ nhà, có thấy dấu hiệu của sự tính toán sòng phẳng. Tôi hỏi thăm tin tức về ông bạn.
- A! Ông Poirot tội nghiệp! Ông ấy mong ông tới lắm.
Bà tháo đôi găng lao động, cùng đi với tôi vào nhà, vừa đi vừa nói:
- Còn cô con gái của ông nữa, sao mà dễ thương! Ở đây ai cũng khen cô ấy. Nhưng này, ông ạ tôi là người cổ, nên cứ thấy bắt một cô gái trẻ như thế suốt ngày ngó nghiêng vào kính hiển vi, là có tội đấy. Phải để cho cô ấy đi chơi, đi nhảy, kết bạn chứ.
- Con bé lúc này đang ở đâu?
Bà Luttrell nhăn mặt:
- Tội nghiệp! Vẫn ru rú trong cái phòng tôi cho bác sĩ Franklin thuê và rồi ông ấy biến thành xưởng thí nghiệm. Ở đó có đủ nào thỏ, nào chuột bạch... Nói thật, tôi không ưa cái thứ khoa học ấy... à, ông nhà tôi đây rồi.
Đại tá Luttrell vừa xuất hiện. Người cao lớn nhưng gầy, mặt nhợt nhạt như xác chết, song đôi mắt xanh trông rất hiền. Ông ta xem chừng có tính nóng nảy và cái tật vừa nói vừa giật giật ria mép. Bà Luttrell nói:
- Ông George ơi, đại úy Hastings đã tới.
Ông đại tá chìa tay:
- Ông đến bằng chuyến tàu... hờ... năm giờ bốn mươi, hả?
- Còn đến bằng chuyến nào khác? - Bà vợ nói như gắt - Vả lại, chuyến nào thì can gì? Ông hãy chỉ phòng cho ông ấy. Rồi có lẽ ông ấy muốn gặp ông Poirot. Hay là... ông muốn dùng trà cái đã, ông Hastings?
Tôi nói không dùng trà và muốn tới chào bạn ngay.
- Đồng ý, đại tá nói. Vậy ông theo tôi... À, này bà Daisy, đã mang hành lý của đại úy lên chưa?
- Đó là việc của ông chứ - bà Luttrell cau có. Tôi còn bận làm vườn đâu có ba đầu sáu tay.
Tôi cùng ông bước lên bậc tam cấp. Ngay ngưỡng cửa, gặp một người đi ra, tóc trắng, dáng người mảnh dẻ, bộ mặt trẻ thơ với cái nhìn ngơ ngác. Người đó đi hơi tập tễnh, tay cầm chiếc ống nhòm.
- Có một hoặc hai... tổ chim... gần cây sung - anh ta nói, giọng hơi lắp.
Vào tới sảnh. Luttrell bảo tôi:
- Đấy là Norton. Cậu ta rất tốt, rất mê chim và hoa.
Trong phòng chờ, một người cao đang đứng cạnh máy điện thoại.
- Tôi muốn treo cổ, xé xác tất cả bọn thầu thoán chết tiệt! Ông ta hầm hừ. Chúng chẳng đáng được gì nên trò.
Sự phẫn nộ quá đáng đó làm chúng tôi phải bật cười. Lập tức tôi có cảm tình với ông ta. Chắc đã quá ngũ tuần, nhưng trông còn đẹp mã. Mặt rám nắng chứng tỏ sống nhiều ở ngoài trời. Mặt khác, nhác nhìn đã thấy ông ta thuộc típ người ngày càng hiếm: loại người Anh chính gốc, bộc trực, biết tỏ uy quyền, cho nên tôi không ngạc nhiên khi đại tá Luttrell giới thiệu đó là ngài William Boyd Carrington. Tôi biết ông đã từng là thống đốc một bang ở Ấn Độ, nổi tiếng thiện xạ, hay đi săn thú rừng. Một trong những con người mà buồn thay, nước Anh ở thời kỳ suy thoái này không sản sinh ra nữa.
Ông ta cười và kêu lên:
- A! Rất mừng được thấy "ông bạn Hastings" bằng xương bằng thịt. Ông bạn già người Bỉ luôn nhắc tới ông. Với lại, ở đây còn cô con gái mỹ miều của ông nữa...
Tôi mỉm cười đáp lại:
- Tôi chắc con Judith ít khi nhắc đến tôi.
- Tất nhiên là không. Con gái hiện đại mà. Thời nay các cô gái dường như ngượng ngùng khi phải nhận mình cũng có cha có mẹ.
- Quả đúng như vậy - tôi thở dài. Thực tế là bố mẹ bị coi là xuống cấp hết.
Boyd Carrington lại cười:
- Tôi không biết ông cảm giác thế nào, vì tiếc thay tôi không có con. Judith của ông là một cô gái rất xinh, nhưng cựu kỳ tự phụ. Đáng ngại đấy.
Ông ta quay trở lại với điện thoại:
- Ông Luttrell hy vọng là ông không phiền, tôi phải xạc cho tổng đài một trận. Nó làm tôi khó chịu quá, phải đợi hoài.
- Vâng, ông cứ làm, tốt thôi.
Tôi theo ông đại tá lên cầu thang, rẽ sang trái, dừng trước một phòng tận cùng hành lang. Poirot đã giữ cho tôi căn phòng trước đây tôi đã ở.
Tuy nhiên, đã có nhiều thay đổi. Suốt dọc hành lang, các cửa đều mở, và tôi nhận thấy các phòng rộng trước kia đã được ngăn thành nhiều phòng nhỏ hơn. Song phòng của tôi trước đây vốn không rộnglắm, vẫn như cũ. Tuy nhiên ở một góc, có thêm một phòng tắm nhỏ xíu. Bàn ghế toàn kiểu mới, rẻ tiền, làm tôi hơi thất vọng. Tôi vẫn thích bày biện theo lối cổ, hợp hơn với chính kiến trúc của ngôi nhà.
Hành lý của tôi được mang lên. Ông đại tá cho biết phòng của Poirot ở ngay đối diện phòng tôi, ông sắn định đưa tôi sang thì có tiếng gọi giật giọng dưới nhà: "George!" Ông đại tá giật nảy mình, đưa tay lên miệng.
- Tôi... tôi... như vậy tạm ổn rồi chứ? Cần gì, ông cứ bấm chuông.
- George!
- Tôi xuống, tôi xuống đây, bà nó ạ.
Ông đi rồi, tôi hồi hộp băng qua hành lang, đến gõ cửa phòng Poirot.


Tội nghiệp ông bạn tôi. Tôi đã nhiều lần mô tả ông, nên bây giờ tôi chỉ kể những gì có thay đổi. Bị thấp khớp, Poirot chỉ đi lại được bằng xe lăn. Thân hình bầu bĩnh trước kia nay đã sọp hẳn, mặt mũi đầy nếp nhăn. Ria mép và tóc thì vẫn đen nhánh, trước kia tôi còn ngờ ngợ, nhưng nay thì nhìn thấy rõ là đen nhờ thuốc nhuộm. Có cảm tưởng là ông mang tóc giả. Duy đối mắt không thay đổi: vẫn sắc sảo, linh lợi như xưa. Và lúc này đôi mắt ấy đang thể hiện niềm xúc động rõ rệt:
- A! Bạn Hastings, anh bạn Hastings...
Tôi cúi xuống để ông nồng nhiệt ôm hôn. Ông tựa hẳn người lên lưng ghế, hơi nghiêng đầu ngắm tôi:
- Vẫn thế. Lưng thẳng, vai vuông và tóc hoa râm, trông anh vẫn có thế lắm. Còn món đàn bà con gái? Họ vẫn ríu rít quanh anh chứ?
- Ồ, Poirot, chả nhẽ anh vẫn nghĩ...
- Không, tôi cho đó là một trắc nghiệm. Trắc nghiệm số một. Khi nào các cô gái trẻ tỏ ra lễ phép với anh, anh có thể tin rằng thế là hết. Đó là vị họ thương hại anh, họ nghĩ: "Thôi, ta cứ tử tế với các vị ấy, tuổi cao rồi, thật là buồn". Nhưng anh, anh Hastings, anh còn trẻ. Với anh, còn rất nhiều triển vọng...
Tôi bật cười:
- Poirot, ông nói quá rồi đấy. Thế còn ông, sức khỏe ra sao?
Poirot nhăn mặt:
- Tôi, thì thân tàn rồi. Không đi lại được, gần như liệt. Nhưng nhờ trời, tôi còn tự ăn được, không phải người bón. Còn những chuyện phải có người giúp như giúp trẻ: đi ngủ, thức dậy, mặc quần áo... thật buồn. Cũng may, hình hài thì thế, những trí óc vẫn tốt. Vẫn hoạt động được.
- Và ông bằng lòng ẩn ở cái xó này? - Tôi hỏi.
Ông nhún vai:
- Tạm được. Tất nhiên, đây không phải là khách sạn Ritz. Cái phòng lúc đầu cho tôi thuê quá nhỏ, bàn ghế lại sơ sài. Tôi đổi sang phòng này, không phải trả thêm tiền. Còn về ăn uống, thì đúng là thực đơn Anh vào loại tồi tệ nhất.
- Thế thì không hay rồi.
- Nhưng tôi không kêu ca đâu nhé, anh nhớ điều đó.
Tuy nhiên Poirot tiếp tục phàn nàn:
- Lại còn cái tạm gọi là hiện đại hóa nữa chứ. Đúng là có phòng tắm với hàng loạt vòi nước. Nhưng từ tất cả những độ mạ kền sáng loáng ấy thì nước chảy ra thế nào? Khăn tắm thì mỏng tang...
- Đúng là ngày xưa vẫn tốt hơn.
- Nhưng không nên kêu ca, Poirot tiếp tục nói. Tôi sẵn lòng chịu đựng để theo đuổi việc lớn.
Một ý nghĩ chợt lóe trong óc tôi:
- Này ông Poirot, ông không.... không đến nỗi túng thiếu chứ? Sau chiến tranh, mọi thứ đều bị ảnh hưởng, cả tình hình kinh tế...
Poirot vội xua tay để tôi yên tâm:
- Không, không. Tôi vẫn thoải mái, còn giàu là đằng khác. Không phải vì tiết kiệm mà tôi đến đây.
- Nếu vậy thì tốt. Có lẽ tôi hiểu ông cảm nghĩ gì. Người có tuổi có xu hướng muốn sống lại những ngày xưa cũ, tìm lại những cảm xúc cũ. Bản thân tôi không hăm hở trở lại đây lắm, song nó làm tôi sống lại biết bao hồi ức tưởng như đã quên. Tôi chắc ông cũng nghĩ thế.
- Hoàn toàn không phải vậy. Đó là anh nói về anh. Chứ còn tôi, hồi đó tôi tới Styles này chẳng vui vẻ gì. Tôi bị thương, chỉ là một kẻ lánh nạn như bao người khác, xa gia đình, xa tổ quốc, chỉ sống nhờ sự cưu mang của một nước xa lạ. Lúc đó tôi không ngờ nước Anh lại trở thành nơi trú ngụ lâu dài, và tôi tìm thấy hạnh phúc ở đó.
- Lâu ngày tôi quên mất chuyện đó. - Tôi thú nhận.
- Thấy chưa. Anh hay suy bụng ta ra bụng người. Hastings hạnh phúc, vậy mọi người đều hạnh phúc.
- Đâu, tôi có nghĩ thế đâu. Tôi cười và chống chế.
- Mà sự thực, cũng đâu có thế. Anh rưng rưng nước mắt nhìn lại phía sau, thở dài: "Ôi, những ngày tươi đẹp! Hồi đó ta còn trẻ..." Nhưng thực ra lúc đó anh có sung sướng gì đâu. Anh cũng vừa bị thương, đang bực mình vì không được ở lại quân đội chiến đấu. Tinh thần anh suy sụp vì phải nằm thời gian dài trong trại an dưỡng. Đã thế anh lại gây thêm rắc rối vì phải lòng hai cô gái cùng một lúc.
Tôi lại cười và hơi đỏ mặt:
- Sao ông nhớ dai thế! Thế ông có nhớ lúc ấy ông nói gì với tôi? Rằng cả hai cô ấy không hợp với tôi, và tôi phải can đảm lên!
Về sau, cả Poirot và tôi lại có dịp gặp nhau tại Pháp. Và cũng tại nước Pháp, tôi đã gặp người phụ nữ duy nhất của đời tôi...
Poirot vỗ nhẹ cánh tay tôi:
- Tôi biết, Hastings, tôi biết. Vết thương lòng hãy còn mới, nhưng không nên cả nghĩ. Hãy nhìn về phía trước.
Tôi tỏ vẻ nản:
- Nhìn về phía trước? Nhưng trước mặt tôi thì có cái gì?
- Trước hết, anh có một nhiệm vụ cần hoàn thành.
- Nhiệm vụ? Nhiệm vụ ở đâu?
- Ở ngay đây.
Tôi ngạc nhiên nhìn ông bạn. Poirot nói:
- Lúc nãy, anh vừa hỏi tại sao tôi có mặt ở Styles. Và có lẽ anh không để ý là tôi tránh trả lời. Nhưng bây giờ tôi nói. Anh Hastings, tôi đến đây để truy bắt một tên giết người.
Tôi tiếp tục nhìn ông, càng thêm lạ lẫm. Và thú thật, tôi thoáng có ý nghĩ là ông bạn bắt đầu nói lẫn. Cuối cùng tôi ấp úng:
- Ông nói... nghiêm chỉnh?
- Nghiêm chỉnh nhất đời. Nếu không tại sao tôi gọi anh đến? Chân tay tôi yếu rồi, nhưng óc tôi vẫn nguyên. Phương pháp của tôi, anh biết đấy, không bao giờ thay đổi. Chỉ cần ngồi yên trên ghế và suy nghĩ. Việc đó tôi vẫn làm được. Thực ra, đó là điều duy nhất tôi có thể làm lúc này. Còn các phần điều tra tích cực khác, tôi đã có anh, Hastings, người bạn vô giá.
- Ông nói nghiêm chỉnh chứ? - Tôi hỏi lại.
- Nhất định rồi. Tôi và anh lại cùng nhau phá án.
Phải mất mấy giây tôi mới tin được là Poirot không đùa.
Poirot mỉm cười nói tiếp:
- Anh tin rồi chứ? Chắc thoạt đầu, anh cho là bộ óc tôi đã kém đi rồi?
Tôi vội chối:
- Không, không. Nhưng nơi này có vẻ như làm gì có tội ác...
- Anh nghĩ vậy ư?
- Tất nhiên, vì tôi chưa gặp hết mọi người.
- Anh đã gặp những ai?
- Mới gặp vợ chồng Luttrell, rồi một cậu tên là Norton - trông rất hiền lành - cuối cùng là Boyd Carrington, bề ngoài cũng dễ mến.
Poirot gật đầu:
- Thế thì, tôi xin nói điều gì: khi đã biết tất cả mọi người trong nhà này, anh vẫn thấy lời tôi nói vừa rồi là bí hiểm.
- Còn những ai nữa?
- Bác sĩ Franklin và vợ, cô Craven là y tá chăm nom bà Franklin - Judith con gái anh; một cô tên là Cole - chừng băm nhăm tuổi - cuối cùng là một anh chàng tên Allerton, có số đào hoa. Xin nói thêm: họ đều là những người dễ thương.
- Và trong đó có một tên là sát thủ?
- Một trong số ấy là kẻ giết người - Poirot tuyên bố nghiêm trang.
- Nhưng làm sao... nghĩa là... làm sao ông biết vậy? - Tôi nói thều thào, vì vẫn chưa hết kinh ngạc.
- Hãy bình tĩnh, Hastings. Và bắt đầu từ chỗ bắt đầu. Anh đưa tôi cái cặp để trên tủ kia. Tốt, cả chìa khóa nữa.
Poirot mở chiếc cặp da, lấy ra một số mẩu báo cắt rời và một mớ giấy đánh máy:
- Anh hãy đọc cái này. Trước mắt đừng quan tâm vội đến các bài cắt từ báo: đó chỉ là tường thuật một số vụ án khác nhau - mô tả hấp dẫ đấy, nhưng thường không chính xác. Anh hãy xem bản tóm tắt của tôi viết thì hơn.
Tôi tò mò đọc ngay.
"VỤ A: ETHERINGTON
Leonard Etherington, nghiện rượu và ma túy, tính tình tàn bạo. Cô vợ trẻ và đẹp, rất khổ vì chồng. Etherington chết, có vẻ bị ngộ độc thức ăn. Khám xét tử thi thì là chết vì bị đầu độc bằng thạch tín. Cô vợ bị bắt, bị buộc tội giết chồng. Trước đó có quan hệ với một công chức trẻ, nhưng anh này đã trở sang Ấn Độ. Không có chứng cớ ngoại tình, nhưng mối liên hệ có vẻ thân thiết. Trên đường trở về Ấn Độ, anh chằng kia làm quen với một cô gái và quyết định đính hôn. Anh ta viết thư báo cho bà Etherington, nhưng không rõ bà này nhận được thư trước hay sau khi chồng chết. Bà ta khẳng định nhận được trước khi. Chứng cớ buộc tội bà phần lớn là gián tiếp, vì không còn biết nghi ngờ ai khác. Do ông chồng đã có tiếng tàn bạo, hay hành hạ vợ, nên đoàn bồi thẩm có vẻ cảm tình với bị cáo. Bà Etherington được miễn tố. Tuy nhiên, dư luận vẫn cho bà là thủ phạm. Bà bị người thân xa lánh, gặp nhiều khó khăn trong đời sống. Hai năm sau, chết vì uống thuốc ngủ quá liều. Kết quả điều tra coi là chết vì tai nạn.
VỤ B: CÔ SHARPLES
Là một bà gái già tàn tật, khổ sở vì bệnh, có cháu gái là Freda Clay trông nom. Cô Sharples chết do bị tiêm một mũi moóc-phin quá liều. Freda nhận là mình tiêm nhầm, và nói thấy bà cô đau đớn quá nên tiêm cho giảm đau. Cảnh sát thì cho là không nhầm mà cố tình. Tuy nhiên không đủ chứng cứ nên Freda Clay vô can.
VỤ C: EDWARD RIGGS
Công nhân nông nghiệp. Nghi vợ ngoại tình với Ben Graig, người ở trọ trong nhà. Cuối cùng người ta thấy cả đôi "gian phu dâm phụ" bị bắn chết bằng khẩu súng Riggs. Anh này tự đến nộp mình
VỤ D: DEREK BRADLEY
Anh này quan hệ với một cô gái, bị vợ phát hiện, dọa giết chết. Quả nhiên Bradley chết do uống bia bị bỏ thuốc độc. Người vợ bị bắt và hoàn toàn nhận tội, bị kết án.
VỤ E: MATTHEW LITCHFIELD
Là bố của bốn con gái, nhưng có tính độc đoán gia trưởng, khiến các con khổ sở. Một hôm, về đến cửa nhà, ông ta bị tấn công, giáng một cú vào đầu. Margaget, cô gái lớn, thú nhận mình đã giết cha để các em đỡ khổ. Litchfield để lại gia tài lớn. Margaget được coi như đã hành động một cách vô thức, được gửi vào trại trừng giới, ít lâu sau thì chết."
Tôi đọc chăm chú, mỗi lúc một ngạc nhiên hơn. Cuốicùng, đặt tập giấy xuống, tôi ngước nhìn Poirot có ý ngầm hỏi.
- Thế nào, anh bạn?
Tôi thong thả đáp:
- Vụ Bradley tôi có nhớ mang máng. Hồi đó tôi có theo dõi, còn nhớ cô vợ là người rất xinh đẹp.
Poirot gật đầu.
- Nhưng ông phải nói rõ hơn. Toàn bộ những vụ này có ý nghĩa gì?
- Anh cứ nói quan điểm của anh trước.
- Tôi vừa đọc tường thuật năm vụ án khác nhau, trong những tầng lớp xã hội khác nhau. Song không thấy giữa chúng có gì giống nhau. Một vụ là do ghen tuông; vụ kia là vợ bị hành hạ tàn bạo nên giết chồng; vụ thứ ba có động cơ là tiền bạc; vụ thứ tư thì có vẻ như nhằm mục đích tốt, vì thủ phạm tự ra đầu thú, còn vụ thứ năm thì có thể là đương sự say rượu.
Tôi ngừng lại một lát, rồi ngập ngừng hỏi:
- Giữa những vụ ấy, có điều gì giống nhau mà tôi chưa nhận ra?
- Không có gì hết. Anh đã thấy rất rõ. Anh chỉ có thể nhận xét một chi tiết phụ duy nhất, là trong từng ấy việc ai là thủ phạm đều rõ không hề có sự phân vân thực sự.
- Anh nói rõ xem nào.
- Ví dụ, bà Etherington được miễn tố, nhưng mọi người đều tin bà ta là thủ phạm. Freda Clay không bị kết án, nhưng không ai nghĩ còn thủ phạm nào khác. Riggs khai không nhớ mình có giết vợ và nhân tình không, nhưng ngoài hắn ra, còn ai vào đấy nữa. Còn Margaret Litchfield, cô này nhận hết. Anh thấy không, trong mỗi vụ chỉ có một kẻ tình nghi duy nhất.
Tôi cau mày suy nghĩ:
- Đúng vậy. Song tôi vẫn chưa hiểu từ đó ông rút ra kết luận gì.
- Hãy khoan. Tôi đi đến một điểm mà anh chưa biết. Giả sử ở mỗi vụ, có một sự việc từ bên ngoài, chung cho tất cả.
- Ông định nói sao?
- Tôi trình bày vấn đề như thế này nhé. Có một người nào đó ta gọi là X. Trong tất cả các vụ trên, bề ngoài X không có lý do gì để giết nạn nhân. Và nếu những thông tin tôi có là đúng, thì lúc xảy ra vụ án nọ, anh ta ở cách đó tới hai trăm năm mươi cây số. Tuy nhiên tôi phải nói là hắn có liên quan mật thiết với Etherington. Hắn lại có một thời gian ở cùng làng với Riggs. Hắn cũng quen biết bà Bradley và tôi có một tấm ảnh - chụp ngoài phố - hắn cùng đứng với Freda Clay. Cuối cùng, lúc Litchfield bị giết, hắn lại đang có mặt gần đó. Anh thấy thế có lạ không.
Tôi trố mắt nhìn Poirot, và nói:
- Thế thì hơi quá. Ta có thể chấp nhận có sự trùng hợp trong hai vụ - dđến ba là cùng - nhưng những năm vụ, thì khó nuốt quá. Dù vô lý thế nào, chắc phải có mối liên hệ gì giữa năm vụ đó.
- Thế là anh đã đi tới kết luận giống tôi.
- Có nghĩa chính tên X bí ẩn đó là thủ phạm.
- Và bây giờ, tôi xin báo với anh rằng X đang ở trong nhà này.
- Ở Styles này?
- Ở Styles. Từ đó ta suy diễn ra điều gì?
Tôi đã đoán trước được điều Poirot sắp nói. Ông nghiêm nghị tiếp:
- Phải, chẳng bao lâu nữa. Ở đây lại sẽ có người bị giết.



***Xem trang:
[1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15]

TOP WAP WORLDWIDE


mobiV trang ch

© GIAITRI102.TK
Thanks to XTGEM