Không bấm vùng phía trên kẻo mất tiền nhé!

Tôi lập tức chuyển lời mời của Poirot tới Norton. Anh nói:
- Được. Tôi sẽ gặp. Nhưng, ông Hastings ạ, có lẽ tôi rất tiếc là đã nói ra chuyện này, ngay cả với ông.
- Nhưng mà, anh chưa nói với ai khác chứ?
- Không. Trừ khi... không, chắc chắn không?
- Có thật vậy không?
- Thật. Tôi không nói với ai.
- Vậy thì chớ nói với bất kỳ ai trước khi gặp Poirot.
Tôi đã để ý ngay đến sự lưỡng lự của Norton trong câu trả lời thứ nhất, nhưng đến câu thứ hai thì tôi yên tâm. Tuy nhiên về sau, tôi buộc phải nhớ tới sự lưỡng lự ấy.

Một lần nữa tôi lại trèo lên mô đất um tùm cỏ dại hôm trước, và thật bất ngờ tôi lại gặp Elizabeth Cole ở đó. Tôi vừa bước lên đỉnh thì cô quay mặt lại:
- Ông Hastings, sao trông ông hồi hộp vậy? Có chuyện gì làm ông bận tâm?
Tôi cố lấy bình tĩnh:
- Không, có gì đâu. Chỉ hơi thở mạnh.
Và nói thêm, vẻ thản nhiên:
- Hình như trời sắp mưa.
Cô ngước mắt nhìn trời:
- Phải, tôi cũng thấy thế.
Chúng tôi yên lặng đến một, hai phút. Người phụ nữ trẻ này có một cái gì khiến tôi rất dễ mến. Từ khi cô thú thật lai lịch của mình và tâm sự về quãng đời đau thương trước đây, tôi càng chú ý đến cô hơn. Hai con người thường gặp bất hạnh tất dễ cảm thông nhau và tôi thành thực mong cô sẽ có một tương lai sáng sủa. Tôi nói một cách bột phát:
- Hôm nay tôi hơi buồn. Có nhiều tin không vui về ông bạn già.
- Ông Poirot?
Sự quan tâm đầy thông cảm của cô khiến tôi không ngần ngại tâm sự. Tôi nói xong, cô im lặng lúc lâu rồi mới nói:
- Tôi hiểu. Vậy là sớm muộn rồi sẽ chấm dứt.
Tôi nói:
- Nếu ông ấy mà ra đi, tôi sẽ cảm thấy hoàn toàn đơn độc.
- Ồ! Nhưng ông còn Judith. Và những đứa con khác.
- Chúng ở tản mát bốn phương trời. Con Judith có công việc của nó. Nó không cần đến tôi.
- Tôi cảm thấy con cái chỉ cần đến bố mẹ khi nào chúng gặp khó khăn. Đó là quy luật bất di bất dịch. Song tôi còn cô đơn hơn ông. Hai chị tôi ở rất xa: một ở Mỹ, một ở Ý.
- Cô ơi đời cô còn dài.
- Băm nhăm tuổi còn gì.
- Băm nhăm là nghĩa gì? Tôi mong được trở lại tuổi ấy.
Và tôi nói nghịch:
- Cô biết không, mắt tôi không mù đâu.
Cô nhìn tôi dò hỏi, rồi đỏ mặt:
- Ông nghĩ gì vậy... ồ, Norton và tôi chỉ là bạn, không còn gì khác. Hai người có một vài điểm chung, nhưng...
- Thì hãy thế.
- Anh ấy... thật tốt. Nhưng ông cũng oái oăm. Ông tưởng tôi còn có thể nghĩ đến chuyện chồng con được sao? Chị tôi là kẻ giết người. Nếu không, thì là kẻ điên loạn. Đằng nào cũng chẳng hay hớm gì.
- Cô không nên băn khoăn việc đo. Chớ quên rằng... có thể đó không phải là sự thật.
- Ông nói gì? Đó là sự thật.
- Cô nhớ không, một lần cô nói với tôi: "Không phải chị Maggie".
- Đó chỉ là cảm nghĩ...
- Cảm nghĩ nhiều khi phù hợp với sự thật.
Cô mở to mắt nhìn tôi.
- Ông nói rõ xem nào.
- Chị cô không phải là thủ phạm thực sự.
Cô đưa tay lên miệng, nhìn tôi chăm chú, vẻ hốt hoảng.
- Ông mất trí rồi. Làm sao ông có ý nghĩ ấy?
- Không hề gì. Một ngày nào đó, tôi sẽ chứng minh cho cô thấy là tôi nói đúng.

Tôi về tới nhà thì gặp Boyd Carrington. Ông báo tin:
- Hôm nay là ngày cuối cùng tôi ở Styles. Mai tôi đi.
- Đi Knatton?
- Vâng.
Ông khẽ thở dài, nói tiếp:
- Nói thật với ông, tôi lấy làm mừng được rời khỏi nơi đây.
Tôi nhún vai
- Phải rồi, tôi cũng biết là ở đây ăn không ngon, phục vụ kém, song...
- Không phải vì chuyện ấy. Dù sao, tiền tọ rẻ, ta không thể đòi hỏi hơn. Không, không phải tôi nói chuyện vật chất. Chỉ là tôi không ưa cái nhà này, không khí làm sao ấy, rất khó giải thích. Có lẽ vì là nơi trước đây đã có án mạng nên không thể được như cũ nữa. Lắm chuyện xảy ra quá... Bà Luttrell bị tai nạn, nay lại đến Barbara tội nghiệp...
Ông yên lặng một lát, chìm trong suy nghĩ rồi nói thêm:
- Tôi không bao giờ nghĩ cô ấy là người muốn tự tử.
Tôi phân vân trước khi đáp:
- Ai mà biết chắc...
Ông đưa tay ngăn:
- Không, tôi chắc. Ông nhớ không, hôm trước suốt ngày tôi đi với cô ấy. Hoàn toàn vui vẻ, phấn khởi. Cô ấy chỉ băn khoăn một điều: lo chồng quá say mê công việc rồi đi quá xa, đem thân mình ra làm thí nghiệm cho nhựng thứ thuốc độc chết tiệt. Ông Hastings, ông biết tôi nghĩ gì không?
- Không.
- Chính ông chồng phải chịu trách nhiệm, với cái tính lầm lỳ, cáu gắt của ông ta. Đi với tôi, Barbara luôn vui vẻ, hạnh phúc. Nhưng ông chồng thì quá lộ liễu, cho rằng mình bị vợ cản trở sự nghiệp. Sự nghiệp cái con khỉ! Một con người trơ trơ, chẳng có cảm xúc. Vợ chết thê thảm như vậy hắn chẳng mảy may xúc động. Hắn vừa nói với tôi rằng bây giờ hắn có thể yên tâm sang châu Phi. Nói thật nhé, nếu ai nói rằng chính ông ta giết vợ, tôi sẽ không ngạc nhiên...
- Thôi nào! Tôi kêu. Ông nói không nghiêm túc.
- Đành là không. Nhưng là tôi nghĩ nếu hắn định giết, hắn sẽ làm cách khác. Ai cũng biết hắn đang nghiên cứu chất physostigmine nên hắn không dại gì dùng chất đó. Mặc dù vậy, không phải mình tôi thấy Franklin là một nhân vật kỳ lạ. Tôi nắm thông tin này từ một người đáng tin cậy.
- Ai vậy? Tôi hỏi ngay.
- Cô Craven.
Tôi không giấu sự ngạc nhiên:
- Sao?
- Suỵt! Khẽ chứ. Phải, chính cô ta làm tôi nảy ý nghĩ trên. Cô ta rất thông minh và rất tinh, không gì qua được mắt. Cô không ưa Franklin.
Thoạt đầu, tôi tưởng cô Craven chì không ưa bà Franklin là bệnh nhân khó tính. Chắc hẳn cô biết hiều chuyện về đôi vợ chồng này.
- Tối nay, cô ấy ở đây.
- Ông nói gì?
Tôi ngạc nhiên, vì ngay sau lễ tang bà Franklin, cô đã rời khỏi Styles.

Ngay từ bấy giờ, tôi phải nói rằng chưa bao giờ nghĩ Poirot có thể thất bại. Trong cuộc chiến chống lại X, tôi không bao giờ tin X có thể thắng. Mặc dù ông yếu đau, tôi vẫn hoàn toàn tin tưởng vào ông, ông là người mạnh nhất trong hai đối thủ. Vì nhiều năm nay, tôi đã quen nhìn thấy ông chiến thắng.
Nhưng cũng lại chính ông đã gieo trong tôi sự nghi ngờ. Trước khi xuống ăn trưa, tôi lên thăm ông, và khong hiểu sao ông buột biệt nói ra câu này:
- Nếu xảy ra chuyện gì với tôi...
Tôi cực lực phải đối, nói không thể có chuyện gì xảy ra.
- Vậy anh không chú ý nghe những lời của bác sĩ Franklin - Poirot nói.
- Franklin không thể biết tất cả. Ông còn sống nhiều năm nữa.
- Có thể, nhưng không chắc. Song tôi muốn nói đến một khả năng khác kia. Mặc dù tôi có thể chết nay mai, song với ngài X, như thế vẫn là muộn quá.
- Cái gì? Tôi sửng sốt kêu lên.
- Chứ sao. X là một tên thông minh, rất thông minh. Và hắn sẽ hiểu rằng thủ tiêu tôi sớm - dù chỉ là ít ngày trước khi tôi chết - cũng là thuận lợi vô giá đối với hắn.
- Thế thì... thế thì cái gì sẽ xảy ra?
- Trong chiến đấu, nếu sĩ quan chỉ huy gục ngã, thì người phó lên thay. Vậy nếu có làm sao, anh có trách nhiệm tiếp tục công việc.
- Tôi làm làm sao được? Tôi không biết gì, như người đi trong đêm.
- Tôi đã lường trước mọi việc. Nếu tôi mệnh hệ nào, anh sẽ có tất ả những tài liệu cần thiết.
Ông vỗ vỗ vào chiếc cặp có khóa đặt bên mình.
- Việc gì phải vòng vèo thế. Ông nói ngay bây giờ những gì tôi phải biết có đơn giản hơn không.
- Không, không. Anh không biết một số điều mà tôi biết, như vậy càng có lợi cho anh.
- Tài liệu ông để đây, hẳn là tường trình chi tiết vụ việc.
- Không phải đâu, vì X có thể âm mưu đánh cắp.
- Vậy là cái gì?
- Những chỉ dẫn, nếu X đọc thì chẳng ích gì, nhưng với anh, sẽ giúp anh tìm ra sự thật.
- Tôi không tin lắm. Tại sao đầu óc ông lại nhiều khê đến thế? Ông cứ thích làm phức tạp thêm mọi chuyện.
- Anh cho chuyện ấy ở tôi đã thành tật mất rồi, có phải không? Có thể anh nói đúng. Nhưng hãy yên tâm, những chỉ dẫn này sẽ đưa anh tới sự thật.
Ông ngừng lời, rồi lát sau nói tiếp:
- Và lúc đó, sợ rằng anh lại không muốn chúng đưa anh đi quá xa thế. Và anh sẽ nói: "Hạ màn đi!"
Giọng Poirot có một điệu gì khiến lại nổi trong tôi nỗi sợ hãi mơ hồ mà tôi đã cảm thấy vài ba lần. Cứ như là có điều gì khuất mắt mà tôi không muốn nhìn, không thể chịu đựng. Một điều mà trong thâm tâm, tôi đã biết rồi.
Tôi gạt ý nghĩ đó đi, chào Poirot rồi xuống phòng ăn.


Bữa ăn khá vui. Bà Luttrell lại cùng ngồi ăn với chúng tôi, nói cười tự nhiên. Franklin hồ hởi, phấn khởi như tôi chưa từng thấy. Lần đầu tiên, tôi thấy cô Craven không bận sắc phục y tá, trút bỏ bộ dạng nghề nghiệp, nghiêm trang, có vẻ xinh đẹp, hấp dẫn hơn.
Sau bữa ăn, bà Luttrell đề nghị đánh bài, song cuối cùng mọi người chỉ chơi những trò đơn giản hơn. Khoảng chín giờ rưỡi, Norton ngỏ ý lên thăm Poirot.
- Hay đấy, Boyd Carrington nói. Tôi cùng đi với anh.
Tôi liền ngăn:
- Theo tôi, không nên... Ông biết đấy, tiếp nhiều người làm ông ấy mệt.
Norton hiểu ý, nói luôn:
- Tôi chỉ mang cho ông cuốn sách nói về chim. Hôm qua tôi đã hứa.
- Được thôi, Boyd Carrington nói. Nhưng... rồi ông lại xuống chứ, ông Hastings.
- Nhất định rồi.
Tôi cùng lên với Norton, Poirot đang chờ. Sau khi nói vài câu, tôi lại xuống phòng khách. Chúng tôi đánh một ván bài ra-mi.
Tôi có cảm giác Boyd Carrington khó chịu vì bầu không khí vô tư tối ấy. Hẳn ông cho rằng vừa có chết chóc, mà sao mọi người đã quên nhanh như vậy. Ông tỏ vẻ đãng trí, ra quân vụng về, rồi cuối cùng xin lỗi và đứng lên, ra mở cửa sổ. Xa xa, tiếng sấm ầm ì, mà cơn giông chưa tới. Boyd Carrington lại đóng cửa, quay về đánh bài, đứng nhìn một lúc rồi đi ra.
Tôi về phòng lúc mười một giờ kém mười lăm. Poirot chắc đã ngủ nên tôi không ghé vào. Vả lại, tôi không muốn phải đề cập đến vấn đề lâu nay lấn cấn. Tôi muốn ngủ và quên.
Tôi bắt đầu thiu thiu thì có tiếng động làm tôi nhỏm dậy. Tưởng có ai gõ cửa, tôi nói: "Cứ vào!". Không nghe trả lời, tôi bật đèn, ra khỏi giường và ngó ra ngoài hành lang.
Tôi thấy Norton từ phòng tắm đi ra, trở về phòng mình. Anh ta mặc bộ áo ngủ kẻ ô màu đặc biệt xấu xí, tóc bù xù như mọi khi. Cửa khép lại, và ngay sau đó tôi nghe tiếng chìa khóa xoay trong ổ.
Sấm nổi lên ầm ầm, to hơn lúc trước. Cơn dông tới gần.
Tôi trở về giường, hơi khó chịu về cái tiếng chìa khóa trong ổ, nghe như báo hiệu chuyện không hay. Norton có thói quen khóa kỹ cửa phòng ban đêm vậy sao? Hay Poirot đã khuyên anh ta phải đề phòng? Tôi chợt nhớ là chìa khóa cửa phòng Poirot đã bí mật biến mất chỉ ít lâu sau khi ông tới.
Nằm trên giường, mắt mở to, tôi thấy nỗi lo càng ngày càng tăng, tiếng sấm liên hồi làm tôi thêm nóng ruột. Cuối cùng tôi nhỏm dậy ra cửa, để khóa nó lại. Rồi mới quay vào, đi ngủ.
Phần 2
Sáng hôm nay, trước khi xuống điểm tâm, tôi rẽ vào phòng Poirot. Ông vẫn nằm. Nhìn thấy những nếp nhăn hằn sâu trên mặt, tôi thấy ông có vẻ rất yếu ớt.
- Sáng nay, ông thấy trong người thế nào? Tôi hỏi.
Ông nở nụ cười nhợt nhat.
- Anh bạn ơi, tôi vẫn tồn tại.
- Nhưng không đau gì chứ.
Ông thở dài:
- Không, chỉ mệt thôi. Rất mệt.
- Tối qua thế nào? Norton có nói hắn nhìn thấy gì hôm đó?
- Có, có nói.
- Là cái gì?
Poirot đăm chiêu nhìn tôi hồi lâu rồi mới đáp:
- Không biết tôi có nên nói lại với anh không. Sợ anh suy diễn...
- Ông nói rõ xem nào.
- Norton nói nhìn thấy hai người.
- Judith và Allerton! Tôi thốt lên. Tôi biết ngay mà.
- Không. Không phải Judith và Allerton. Tôi chả bảo là anh sẽ suy diễn mà! Anh cố chấp lắm.
- Xin lỗi - Tôi bối rối, nói. Vậy là ai?
- Có lẽ mai tôi sẽ nói. Tôi còn nhiều điều phải nghĩ.
- Chuyện trò với Norton, ông có biết thêm điều gì làm sáng tỏ vụ việc của chúng ta không?
Poirot gật đầu, rồi nhắm mắt, ngả người xuống gối. Ông nói:
- Vụ việc đã kết thúc. Chỉ còn vài chi tiết cần làm rõ. Anh xuống ăn sáng đi. Và gọi Curtiss cho tôi, được không?
Tôi làm theo. Vả tôi cũng muốn gặp Norton, nóng ruột xem anh ta đã nói gì với Poirot. Thực lòng tôi không thỏa mãn. Sự kém nhiệt tình của Poirot khiến tôi bực dọc.Tại sao úp úp mở mở, giữ bí mật đến thế? Và tại sao Poirot có vẻ buồn bã một cách khó hiểu? Lý do sâu xa là ở đâu?
Norton không có trong phòng ăn. Điểm tâm xong, tôi đi một vòng quanh vườn. Cơn dông ban đêm đã làm không khí mát lạnh, và tôi nhận thấy mưa khá to. Boyd Carrington đứng trên bồn cỏ. Tôi mừng gặp được người có thể tâm sự và tôi rất muốn thổ lộ hết. Poirot không còn khả năng hành động một mình. Nhưng Boyd Carrington sớm nay trông đầy sinh lực, khiến tôi vững dạ.
- Ông xuống muộn, Boyd nói.
- Vâng. Tôi ngủ trưa hơn mọi ngày.
- Đêm qua dông to quá. Ông có nghe thấy gì không?
- Tôi chỉ nhớ mang máng có nghe tiếng sấm ầm ì trong giấc ngủ.
- Hôm qua tôi thấy không khỏe lắm, Boyd nói tiếp. Hôm nay khá hơn nhiều rồi.
Ông vươn vai ngáp. Tôi hỏi:
- Norton đâu?
- Có lẽ chưa xuống. Anh ta chúa đại lãn, ông biết đấy.
Không ai bảo ai, chúng tôi cùng ngước mắt nhìn lên. Cửa phòng Norton ở ngay trên đầu. Tôi ngạc nhiên nhận ra trong các cửa, chỉ có mỗi cửa của Norton còn đóng.
- Lạ quá, tôi nói. Mọi người quên gọi anh ta dậy chăng?
- Đúng là lạ. Hy vọng cậu ta không ốm. Ta lên xem sao.
Chúng tôi cùng lên gác. Cô hầu phòng, người hơi đần, đang ở trong hành lang gác hai. Boyd Carrington hỏi, cô ta nói đã gõ cửa mà không thấy Norton thưa. Tôi lại gần: đúng là cửa khóa. Lòng tôi bỗng có linh cảm xấu. Tôi đá mạnh vào cánh cửa gỗ, gọi:
- Norton... Norton! Dậy đi.
Rồi hét to.
- Dậy, dậy!
Đã rõ ràng là không có tiếng trả lời, chúng tôi đi tìm đại tá Luttrell. Ông vừa nghe vừa đưa tay dứt râu, mắt hốt hoảng. Bà vợ, bao giờ cũng quyết đoán, biết ngay phải làm gì, nói:
- Bằng cách nào cũng phải mở cửa.
Lần thứ hai trong đời, tôi lại chứng kiến một vụ phá cửa ở Styles. Và sau cánh cửa đó, chúng tôi thấy cái trước kia đã thấy: một xác chết.
Norton nằm trên giường, trong bộ áo ngủ, tay phải còn nắm chặt khẩu súng lục. Đúng giữa trán là một lỗ đạn sâu hoắm. Chìa khóa phòng nằm trong túi áo.
Ngay lúc đó, tôi không thể nhớ ra điều đó là thế nào. Tôi quá xúc động không thể nghĩ ra.

Tôi vừa bước vào, Poirot đã nhận thấy bộ mặt ngơ ngác của tôi, hỏi ngay:
- Chuyện gì vậy? Norton?
- Chết rồi!
- Bao giờ? Thế nào?
Tôi nói vài câu vắn tắt, rồi kết luận:
- Rõ là tự tử rồi, không thể có giả thuyết nào khác. Cửa khóa từ bên trong, chìa khóa nằm trong túi áo Norton. Các cửa sổ cũng đóng. Tối qua, tôi đã trông thấy anh ta vào phòng, nghe tiếng khóa cửa.
- Anh nhìn thấy? Có thật anh nhìn thấy, và người ấy có phải là Norton?
- Chắc chắn. Cái màu áo ngủ ấy thì lẫn đi đâu được.
Poirot bỗng trở lại cái cung cách trước đây.
- Ồ! Tôi hỏi trông thấy người, có phải trông thấy áo đâu. Bất cứ người nào cũng có thể mặc áo ngủ giống áo ngủ của Norton.
- Đành rằng tôi không nhìn rõ mặt. Nhưng còn bộ tóc bù xù và... cái dáng đi hơi tập tễnh...
- Người nào cũng có thể giả vờ tập tễnh.
Tôi trố mắt nhìn ông bạn:
- Ông cho rằng người tôi nhìn thấy không phải là Norton?
- Tôi không hề bảo vậy. Tôi chỉ phân vân vì những lý do anh đưa ra để khẳng định đó là Norton, chứ tôi không phân cãi là không phải Norton. Thật khó có thể là ai khác, vì tất cả những người trong nhà này đều có tầm vóc cao hơn anh ta. Anh ta chỉ cao khoảng một mét sáu nhăm. Dù sao, cũng như trò quỷ thuật ấy nhỉ? Anh ta và phòng, khóa cửa, bỏ chìa khóa vào túi và hôm sau, khi phát hiện anh ta chết, chìa khóa vẫn nguyên trong túi.
- Vậy ông không tin là... Norton tự tử?
Poirot thong thả lắc đầu:
- Không. Norton không tự tử, anh ta bị giết.

Tôi hoang mang tột độ. Điều Poirot vừa nói thật khó lý giải, và tôi không hiểu cũng phải, mọi người hãy lượng thứ cho tôi. Tôi đã không đoán ra sự thật, vì đầu óc u mê của tôi không làm việc tỉnh táo.
Tuy nhiên, tất cả đều rất lô-gích! Norton bị giết. Tại sao? Tôi nghĩ bụng, chắc là để anh ta không nói ra đã nhìn thấy cái gì.
Nhưng anh ta đã nói với một người rồi! Và như thế là người đó nay cũng đang gặp nguy hiểm. Không những nguy hiểm mà còn không có khả năng tự vệ.
Lẽ ra tôi phải hiểu.
Lẽ ra tôi phải lường trước.
- Ông bạn ơi! Poirot nói với tôi như thế khi tôi đi ra.
Đó là những lời cuối cùng của Poirot.
Và khi Curtiss vào, hắn thấy chủ hắn đã chết.



***Xem trang:
[1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15]

TOP WAP WORLDWIDE


mobiV trang ch

© GIAITRI102.TK
Thanks to XTGEM

Lamborghini Huracán LP 610-4 t