Nhờ giàu có và các mối liên kết chính trị Tommy đã mua được một trong những thẩm phán thoái hóa của ông Trùm với số tiền cực lớn. Sau đó gã thuyết phục vợ quay về với gã.
Aprile bực tức quan sát và hối tiếc bởi phải gánh chịu trách nhiệm. Trước tiên lão quan tâm đến những khía cạnh thực tế của vấn đề. Lão có được một bản copy di chúc của gã chồng và biết rằng, như một người chủ gia đình tử tế, gã để lại toàn bộ tài sản nơi trần thế cho vợ và các con mình. Cô ả sẽ trở thành một góa phụ giàu có. Thế rồi lão cử một đội đặc nhiệm với những chỉ dẫn đặc biệt lên đường. Trong vòng một tuần, tay thẩm phán nhận được một cái hộp dài quấn ruy băng. Trong hộp, giống như một đôi găng tay dài, đắt tiền bằng lụa đỏ, là hai cánh tay to tướng của gã chồng, một bên cổ tay đeo chiếc đồng hồ Rolex đắt tiền mà Aprile tặng gã nhiều năm trước, như một biểu hiện quý mến. Ngày hôm sau phần còn lại của thi thể được phát hiện đang dập dềnh trôi trong làn nước bên cầu Verrazano.
Một truyền thuyết khác cũng ớn lạnh bởi sự mập mờ của nó, như chuyện ma của trẻ nhỏ. Trong lúc các con của ông Trùm đang theo học trường nội trú, một anh chàng phóng viên táobạo và có tài, nổi danh về việc vạch trần nhược điểm của các nhân vật nổi tiếng bằng giọng văn hóm hỉnh, đã lần ra bọn trẻ và dụ chúng vào cái được xem như cuộc trao đổi bằng lời vô hại. Chàng phóng viên tếu táo cùng bọn trẻ, với vẻ ngay thơ của chúng. với áo quần đồng phục của chúng và với chủ nghĩa lý tưởng trẻ thơ của chúng về cách tạo dựng một thế giới tốt đẹp hơn. Anh ta đối chiếu việc này với danh tiếng của cha chúng trong khi vẫn chấp nhận Trùm Aprile thực sự chưa từng bị kết tội.
Bài báo trở nên nổi tiếng, được lưu hành trong các phòng thông tin trên toàn quốc, thậm trí cả trước khi phát hành. đó là một loại thành công mà người cầm bút mơ ước. Ai cũng thích nó.
Chàng phóng viên là người yêu thiên nhiên. Năm nào anh ta cũng đưa vợ và hai con đến ngôi nhà nghỉ ở phía bắc New York để đi săn, câu cá hoặc để sống một cách giản đơn. Họ đã ở đó trong kỳ nghỉ cuối tuần có lẽ Tạ ơn dài lê thê. Vào ngày chủ nhật, ngôi nhà nghỉ, cách thị trấn gần nhất mười dặm, bốc cháy. Không có ứng cứu trong khoảng hai tiếng đồng hồ. Ngôi nhà đã cháy trụi còn chàng phóng viên cùng vợ con thì chỉ bị cháy xém. Một cuộc xuống đường rầm rộ nổ ra và một cuộc điều tra quy mô được tiến hành, nhưng không tìm được chứng cứ về hành động bạo lực dẫn tới sát nhân. Đoàn điều tra kết luận, cả nhà bị ngất xỉu vì khói trước khi có thể thoát ra ngoài.
Rồi một việc kỳ lạ xảy ra. Ít tháng sau thảm kịch trên những tiếng đồn bắt đầu lan truyền. Những tin tức nặc danh lọt vào cơ quan FBI, cảnh sát và báo chí. Tất cả đều cho rằng vụ cháy là hành động trả thù của tay Trùm Aprile bỉ ổi. Báo chí hâm nóng câu chuyện, kêu gọi mở lại phiên tòa. Phiên tòa được mở, nhưng một lần nữa lại không có chứng cứ. Thế là bất chấp mọi thử thách, vụ này trở thành truyền thuyết thứ hai về tính tàn bạo của Trùm Aprile.
Mặc cho dư luận phản đối, nhà chức trách đành phải hài lòng, bởi chẳng có gì bắt bẻ được lão. ai cũng biết các nhà báo được hưởng quyền bất khả xâm phạm. Hàng nghìn nhà báo cứ bị giết thì còn ra thể thống gì ? Trùm Aprile quá khôn ngoan để chấp nhận mạo hiểm như vậy. Song huyền thoại chẳng bao giờ chết. Một số nhân viên FBI thậm chí còn cho rằng chính lão đã góp phần tạo ra những đồn đại để hoàn thiện huyền thoại về lão. Và cứ thế nó lan ra.
Nhưng ở một khía cạnh khác Aprile là một người hào phóng. Nếu bạn phục vụ lão một cách trung thành bạn sẽ trở nên giàu có và nhận được sự che chở tuyệt vời mỗi khi bạn gặp khó khăn. Phần thưởng lão ban rất hậu hỹ, nhưng đòn trừng phạt thì bất di bất dịch. đó là huyền thoại về lão.
Sau lần gặp Portella và Cilke, Trùm Aprile phải sắp xếp lại một số việc. Lão cho đón Astorre về nhà sau mười một năm xa cách.
Lão cần Astorre, thực ra lão đã chuẩn bị cậu cho thời điểm này. Lão thậm chí yêu thương Astorre còn hơn con đẻ. Ngay khi còn nhỏ Astorre đã luôn là đứa cầm đầu, già dặn trong khả năng úng xử. Cậu yêu quý lão và không khiên slão phải lo lắng như đám con đẻ của lão vẫn thường làm. Và mặc dù Valerious và Marcantonio đã hai mươi và mười tám tuổi, trong khi Astorre mới lên mười, nhưng cậu vẫn thể hiện khả năng độc lập với các anh. Mỗi khi Valerious bắt nạt cậu đều bị cậu chống trả. Marcantonio trìu mến với cậu hơn và đã mua cho cậu cây đàn banjo đầu tiền để khuyến khích cậu ca hát.
Chỉ có một người Astorre nghe lời hơn cả, là Nicole. Hơn cậu hai tuổi, nàng đối xử với cậu như bạn bè đồng trang lứa trong lúc cậu vẫn chỉ muốn làm một chú nhóc. Nàng nhờ cậu làm những việc vặt và xúc động lắng nghe những bản ballads Italy cậu hát cho nàng. Và tát vào má cậu khi cậu cố hôn nàng. Ngay từ hồi còn nhỏ vẻ đẹp của phụ nữ luôn làm cậu thích thú.
Mà Nicole lại rất đẹp. Nàng có đôi mắt đen rộng mở và nụ cười đầy khêu gợi. Khuôn mặt biểu lộ từng trạng thái cảm xúc của nàng. Nàng thách thức bất kỳ kẻ nào dám cho rằng là phái yếu luôn thua kém và phải tuân thủ cánh nam nhi. Nàng căm ghét cái thực tế là về mặt thể lực nàng không khỏe như hai anh và Astorre, nàng không thể khẳng định ý chí của mình bằng sức mạnh mà chỉ bằng sắc đẹp. Tất cả những ấm ức kể trên làm nàng trở nên can đảm, và nàng giễu tất cả, kể cả cha mình, bất chấp cái danh tiếng dễ sợ của lão.
Sau cái chết của vợ, cá con khi đó hãy còn nhỏ dại Trùm Aprile quyết định đi nghỉ một tháng hè ở Sicily. Lão yêu cuộc sống quê nhà, gần thị trấn Montelepre. Ở đó lão vẫn còn sở hữu một bất dộng sản có tên là Villa Grazia, một chốn ẩn dật nơi thôn dã xa xưa của một bá tước.
Vài năm sau lão thuê một người trông nom Grazia. đó là một quả phụ Sicily tên là Caterina. Bà là một phụ nữ đĩnh đạc, khỏe mạnh, có vẻ đẹp của một nông dân no đủ và một khứu giác nhạy bén về quản lý cơ ngơi khiến dân làng phải trọng nể. Bà trở thành nhân tình của lão. Lão giấu nhẹm chuyện này với các con cũng như bè bạn mặc dù lúc đó lão đã ngũ tuần và là một ông vua trong thế giới của lão.
Lần đầu được cùng Raymonde Aprile tới Sicily, Astorre mới lên mười. Trước đó Aprile đã được đề nghị hòa giải gấp cuộc xung đột dữ dội giữa cosa nhà Corleone và cosa nhà Clericuzio. Lão khoái trá tận hưởng một tháng nghỉ ngơi thảnh thơi tại Villa Grazia.
Ở tuổi lên mười, Astorre là đứa dễ bắt chuyện. Cậu luôn vui vẻ. Khuôn mặt tròn đẹp của cậu cùng màu da ôliu toát lên tình thương yêu. Cậu luôn miệng hát với một giọng tenor ngọt ngào. Và khi thôi hát cậu lại đòi được cùng trò chuyện. Vì có tính cục cằn của một đứa trẻ mang dòng máu kẻ cướp, cậu bắt nạt tất cả bọn trẻ cùng trang lứa.
Aprile mang cậu tới Sicily vì cậu là chỗ bầu bạn tốt nhất đối với một người tuổi trung niên. Việc này xem ra rất lạ với cả hai cũng như với cách lão nuôi dạy ba đứa con đẻ của mình.
Khi giải quyết công việc, Aprile thường dùng cách hòa giải các tranh chấp để tạo ra một nền hòa bình tạm thời. Lúc này lão tận hưởng những ngày nghỉ ngơi để hồi tưởng thời thơ ấu tại nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Lão ăn chanh, cam và ô liu, lão làm những chuyến đi bách bộ dài cùng Astorre dưới ánh sáng âm u của mặt trời Sicily phản chiếu những ngôi nhà đá và những mỏm núi bất tận với cái nóng oi ả. Rất lâu rồi lão đã kể cho cậu bé nghe những câu chuyện cổ về các chàng Robin Hood xứ Sicily, cuộc đấu tranh của họ chống lại người Moor, người Pháp, người Tây Ban Nhà và cả Đức Giáo Hoàng. Cả những truyền thuyết về người anh hùng nơi đây, ông Trùm Zero Vĩ Đại.
Ban đêm, ngoài thềm Villa Grazia, hai người cùng ngắm nhìn bầu trời Sicily trong xanh với hàng ngàn ngôi sao lấp lánh và những tia chớp phóng qua những dãy núi cách đó không xa. Astorre nhanh chóng học được thổ ngữ Sicily và ăn ôliu đen cứ như thể chúng là kẹo vậy.
Chỉ cần vài ngày Astorre đã thiết lập được quyền thủ lĩnh của mình lên đám trẻ trong làng. Với Aprile, đó quả là một điều kỳ diệu vì trẻ con Sicily vốn đầy lòng tự trọng chẳng dễ nể vì ai. Nhiều tiểu thiên thần mười tuổi trong số đó đã thành thạo Lupara, một loại súng Sicily từng vang danh một thuở.
Aprile, Astorre và Caterina dành những đêm hè cho việc ăn uống ngoài trời trong khu vườn um tùm sạch sẽ. Những cây cam, cây chanh tỏa vào không gian mùi hương thơm ngát. thỉnh thoảng đám bạn thiếu thời của lão được mời tới ăn tối hay chơi bài. Astorre giúp Caterina tiếp rượu họ.
Caterina và ông Trùm không khi nào để lộ tình cảm của mình trước mặt mọi người, nhưng cả làng đều biết tỏng nên chẳng ai dại gì ve vãn Caterina. Họ chỉ bày tỏ lòng kính trọng mà nữ chủ nhân của tòa nhà cần được hưởng. Chưa bao giờ trong đời ông Trùm Aprile vui như vậy.
Thể rồi chỉ ba ngày trước khi chuyến viếng thăm kết thúc, một chuyện động trời đã xảy ra: Trùm Aprile bị bắt cóc khi đang đi dạo trên đường làng.
Tại tỉnh bên, Cinesi, một trong những tỉnh hẻo lánh nhất và kém phát triển nhất Sicily, thủ lĩnh cosca, một Mafioso địa phương, một kẻ hung bạo và tàn nhẫn có tên là Fissolini. Thâu tóm quyền lực trong vùng nhưng y lại không nắm được thông tin về các cosca còn lại trên đảo. Y không biết tí gì về quyền lực ghê gớm của Trùm Aprile và cũng không ngờ sự việc lại có thể vượt ra khỏi cái thế giới xa xôi, an toàn y đang ngự trị. Y quyết định bắt cóc ông Trùm Aprile để đòi tiền chuộc. Cái điều luật duy nhất mà y biết mình phạm phải là đang xâm lấn lãnh địa của cosca láng giềng, nhưng lão người Mỹ xem ra đủ giàu để thử liều một quả.
Cosca là đơn vị cơ sở của tổ chức mang tên Mafia và thường bao gồm những người cùng huyết thống. Những công dân danh giá như luật sư hay bác sĩ bám vào cosca để bảo vệ lợi ích của họ. Mỗi cosca là một tổ chức phức tạp nhưng có thể liên minh với các cosca mạnh hơn. Mối liên kết đó được gọi chung là Mafia. Tuy nhiên ở đây không có thủ lĩnh hay chỉ huy tổng thể. Mỗi cosca thường tham gia một lĩnh vực làm ăn riêng trên lãnh thổ riêng của nó. Có cosca kiểm soát giá nước và ngăn cản chính phủ xây dựng các đập nước nhằm làm hạ giá thành. Bằng cách đó nó chống lại độc quyền của chính phủ. Có cosca kiểm soát thị trường lương thực thực phẩm. Những cosca hùng mạnh nhất Sicily lúc này là cosca Clericuzio ở Palermo - kiểm soát công cuộc xây dựng trên toàn Sicily, và cosca của Corleone kiểm soát các chính khách ở Roma và sắp đặt việc vận chuyển ma túy trên toàn thế giới. cũng có những cosca vớ vẩn chỉ bắt đám thanh niên ngon mắt đáp lễ bằng cách hát cho đám bồ bịch của chúng nghe. Tất cả các cosca đều dính dáng đến tội ác. Chúng không dung thứ bất kỳ một kẻ vô tịch sự lười biếng nào dám chôm chỉa những gia đình trong sạch - những người nộp đầy đủ lệ phí cho cosca của chúng. Những tên móc túi hay hãm hiếp phụ nữ tức khắc bị hành quyết. Ngay trong các cosca, tội ngoại tình cũng không được dung thứ. Cả đàn ông và đàn bà đều bị xử tử. Điều đó ai cũng hiểu.
Cosca của Fissolini có thu nhập thấp. Nó kiểm soát việc buôn bán tranh thánh, được trả tiền để lo việc bảo vệ gia súc và tốt chức bắt cóc đám nhà giàu bất cẩn.
Thế là trong khi đang ung dung tả bộ trên đường làng, Trùm Aprile và cậu bé Astorre bị thằng ăn cướp hạng bét Fissolini cùng đàn em tống lên hai chiếc xe quân dụng Mỹ.
Mười gã đàn ông mặc áo quần nông dân, vũ trang bằng súng trường. Chúng nhấc Trùm Aprile khỏi mặt đất rồi ném lão lên chiếc xe thứ nhất. Astorre không do dự nhảy lên xe cùng lão. Lũ cướp cố kéo cậu ra nhưng cậu bám rất chặt. Hai chiếc xe chạy khoảng một tiếng đồng hồ thì tới một căn cứ trên những dãy núi bao quanh Montelepre. Sau đó cả bọn lại lên ngựa và lừa men theo triền núi đi về phía chân trời. Suốt cuộc hành trình, cậu bé quan sát mọi vật với cập mắt xanh mở to nhưng không một lần mở miệng.
Gần hoàng hôn, họ tới một cái hang nằm sâu trong núi. Ở đó họ được ăn thịt cừu nướng, bánh mỳ và rượu nhà làm. Tại nơi hạ trại có bức tượng bán thân cỡ lớn của Đức Mẹ Đồng Trinh đặt trong cái hòm đựng thánh cốt bằng gỗ màu đen được chạm trổ bằng tay. Bất chấp tính tàn ác của mình, Fissolini vẫn là một kẻ sùng đạo. Y có vẻ lịch sự chất phác của một nông dân. Y tự giới thiệu tên với Trùm Aprile và cậu bé. Không nghi ngờ gì, y là thủ lĩnh của băng cướp. Y lùn mà khỏe như vâm. Bên hông y lủng lẳng khẩu súng trường và hai khẩu súng lục. Mặt y chai lỳ như miền đất Sicily nhưng trong mắt y ánh lên vẻ phóng khoáng. Y yêu đời và khoái những chuyện khôi hài, đặc biệt là lúc này y đang giữ trong tay một người Mỹ giàu có mà trọng lượng được quy ra vàng. Và đang thưởng thức nó.
- Thưa quý ngài, y nói với ông Trùm. Tôi không muốn ngài phải lo lắng về cậu bé này. Sáng mai cậu ấy sẽ mang thư đòi tiền chuộc vào thành phố.
Astorre đang ăn uống ngon lành. Cậu chưa từng được nếm món nào ngon như món thịt cừu nướng này. Cậu ngừng nhai và can đảm lên tiếng
- Tôi sẽ ở lại với bác Raymonde của tôi.
Fissolini phá lên cười
- Thức ăn ngon mang lại lòng can đảm. Để tỏ lòng tôn kính của tôi đối với quý ngài đây, tôi đã tự tay nấu ăn đấy. Tôi còn dùng đến cả gia vị của mẹ tôi nữa.
- Tôi sẽ ở lại với bác tôi, Astorre nói, giọng cậu vang lên rõ ràng, thách thức.
Trùm Aprile nói với Fissolini một cách nghiêm nghị nhưng thân mật
- Thật là một đêm tuyệt diệu - Thức ăn, không khí trong lành, bè bạn của ngài. Tôi mong đợi làn sương tinh khôi nơi thôn dã. Tuy nhiên tôi khuyên ngài nên đưa tôi về lại nhà.
Fissolini kính cẩn cúi đầu về phía lão.
- Tôi biết ngài giàu có. Vậy ngài có thế lực đằng sau không? Tôi chỉ yêu cầu một trăm ngàn đô la Mỹ thôi.
- Việc đó xúc phạm tôi, lão nói. Ngài sẽ làm tổn thương thanh danh của tôi. Cứ gấp đôi lên. Và năm mươi ngàn nữa cho thằng bé. Tiền sẽ được trả. Nhưng rồi cuộc sống của ngài sẽ vĩnh viễn khốn nạn. Lão dừng lại một lát, tôi ngạc nhiên khi thấy ngài liều đến thế.
Fissolini thở dài.
- Mong ngài hiểu cho, thưa quý ngài, tôi là một người nghèo. Thực ra tôi có thể lấy bất kỳ những gì tôi muốn trong lãnh địa này, nhưng Sicily là miền đất đáng nguyền rủa đến nỗi những kẻ giàu có cũng lại quá nghèo để giúp đỡ loại người như tôi. Ngài phải hiểu rằng ngài đang là cơ hội để tôi gỡ gạc chút đỉnh.
- Thế thì lẽ ra ngài phải đến chỗ tôi để yêu cầu giao việc cho ngài chứ, Aprile nói. Tôi luôn luôn trọng dụng nhân tài.
- Ngài nói thế vì lúc này ngài là kẻ yếu và đang không được giúp đỡ đấy thôi, Fissolini nói. Kẻ yếu lúc nào chả hào phóng. Nhưng tôi sẽ làm theo lời khuyên của ngài mà yêu cầu gấp đôi. Dù sao tôi cũng cảm thấy có chút tội lỗi trong chuyện này. Không ai có giá cao như vậy cả? Tôi sẽ để cậu bé tự do ra đi. Tôi dễ mủi lòng trước lũ trẻ. Tôi có bốn đứa con, tôi phải lo cho những cái tàu há mồm ấy.
Aprile nhìn Astorre
- Cháu sẽ đi chứ?
- Không, cậu đáp, đàu cúi thấp. Cháu muốn ở lại với bác. Cậu mở to mắt nhìn thẳng vào Aprile.
- Vậy thì cứ để nó ở lại, Lão nói với băng cướp.
Fissolini lắc đầu.
- Nó sẽ quay về. Tôi giữ lời mà. Tôi sẽ không bị mang tiếng là một kẻ bắt cóc trẻ con. Bởi rốt cuộc thì, thưa quý ngài, dù cho tôi có được hết sức trọng vọng, tôi vẫn phải gửi ngài về nhà từng mẩu một nếu người ta không trả tiền chuộc. Còn nếu tiền được trả, tôi xin thề với ngài lời thề danh dự của Pietro Fissolini, không một sợi râu nào của ngài bị đụng đến.
- Tiền sẽ được trả, Trùm Aprile bình tĩnh nói. Còn bây giờ hãy để chúng tôi được làm điều tốt nhất. Này cháu, hãy hát một bài cho các quý ông đây nghe đi.
Astorre hát cho đám cướp nghe. Chúng rất khoái và khen ngợi cậu bằng cách làm rối tung mớ tóc của cậu một cách trìu mến. Quả thật, đây là một khoảnh khắc kỳ diệu đối với tất cả bọn chúng. Giọng ca ngọt ngào của cậu bé cùng những bản tình ca lấp đầy cả vùng sơn cước.
Lát sau mền và túi ngủ được mang từ hang bên cạnh tới. Fissolini hỏi
- Thưa quý ngài, ngài muốn dùng món gì vào bữa sáng mai? Một ít cá tươi vừa đánh nhé? Rồi thì mì ống và thịt bê cho bữa trưa chứ? chúng tôi xin được phục vụ ngài.
- Xin cảm ơn ngài, Aprile nói, một ít phó mát và trái cây là đủ rồi.
- Chúc ngài ngủ ngon, Fissolini nói. Cái nhìn buồn bã của cậu bé làm y mủi lòng, y vỗ nhẹ đầu cậu.
- Ngày mai cậu sẽ được ngủ ngay trên giường của cậu thôi.
Astorre nhắm mắt để ngủ ngay trên mặt đất cạnh Aprile.
- Nằm cạnh ta nào, lão nói rồi vòng tay ôm lấy cậu.
Astorre ngủ say đến nỗi khi những tiếng lách cách làm cậu thức dậy thì vầng dương đỏ ối đã lên cao quá đầu. Cậu ngồi dậy và thấy khoảng năm chục người đàn ông có vũ trang đã đứng đầy trong hang. Trùm Aprile nhã nhặn, bình thản và đường hoàng đang ngồi trên một phiến đá lớn nhấm nháp tách cà phê.
Lão nhìn thấy Astorre và vẫy tay ra hiệu
- Astorre, cháu có muốn uống cà phê không? Lão chỉ tay vào người đàn ông đứng trước mặt
- Đây là người bạn tốt của bác, Bianco, chú ấy đã cứu bác cháu mình.
Astorre thấy một gã khổng lồ, dù được bọc kín trong lớp mở, mặc comple, đeo cà vạt và hình như không mang súng vẫn đáng sợ hơn nhiều so với Fissolini. Lão có mái tóc quăn và trắng, cặp mắt to vằn đỏ, và lão toát ra uy quyền. Nhưng lão có vẻ muốn che giấu uy quyền của mình khi nói bằng một giọng nhẹ nhàng và nghiêm trang.
Octavio Bianco nói
- Thưa Don Aprile, tôi phải xin lỗi vì đã tới trễ để ngài phải ngủ như một nông dân trên mặt đất thế này. Nhưng tôi đã lên đường ngay sau khi nhận được tin báo. Tôi vẫn biết Fissolini là một thằng ngu, nhưng tôi không ngờ nó dám làm việc này.
Có tiếng búa vang lên và có vài người bước ra khỏi tầm nhìn của Astorre. Cậu thấy hai thanh niên đang đóng một cây thập tự. Dần dần, vì nằm ở góc xa của nền hang, cậu thấy Fissolini cùng mười tên cướp bị trói gô trên mặt đất và bị buộc vào những thân cây. Chúng bị bó chặt trong một tấm mạng bằng cả dây điện lẫn dây thừng, chân tay quấn với nhau. Trong chúng giống một đàn ruồi bu trên tảng thịt.
Bianco cất tiếng hỏi
- Don Aprile, đứa nào trong đám súc sinh này ngài muốn xử trước?
- Fissolini, Ông Trùm nói. Nó là đứa cầm đầu.
Bianco kéo lê Fissolini đến trước mặt Aprile, y vẫn bị bó chặt như một xác ướp. Bianco và một tay súng của lão xốc y lên và bắt y phải đứng. Xong đâu đấy Bianco quát
- Fissolini, sao mày có thể ngu đến như vậy hả? Mày không biết ngài đây đang được tao bảo vệ à, nếu không thì chính tao đã bắt cóc ngài ấy rồi, đâu đến mày? Hay mày nghĩ mày chỉ vay một chai dầu, tí dấm? Đã bao giờ tao xâm phạm lãnh địa của mày chưa? Thế mà mày lại luôn cứng đầu, và tao biết mày sẽ toi mà. Được, giống như Chúa, mày phải bị treo lên cây thánh giá. Hãy xin lỗi Don Aprile và thằng cháu của ông ấy. Tao sẽ ban cho mày một ân huệ là bắn mày trước khi tụi tao đóng đinh.
- Đúng thế, Aprile bảo Fissolini. Hãy giải thích sự vô lễ của ngài.
Fissolini đứng thẳng và ngạo nghễ.
- Nhưng sự vô lễ không phải nhằm vào cá nhân ngài, thưa quý ngài. Tôi đâu có biết ngài là người quan trọng và thân thiết với các bạn tôi. Cái thằng Bianco này lẽ ra đã có thể thông báo cho tôi đầy đủ chứ. Thưa quý ngài, tôi đã phạm sai lầm thì tôi phải trả giá. Y dừng lại một lát rồi thét vào mặt Bianco một cách giận dữ và khinh miệt
- Bảo những thằng kia ngừng đóng đinh lại. Tao điếc tai mất. còn mày không thể làm tao sợ chết trước khi giết tao đâu. Fissolini lại quay sang Aprile, Cứ xử tôi, nhưng xin hãy tha cho người của tôi, chúng chỉ làm theo lệnh thôi. Chúng có gia đình. Ngài sẽ hủy hoại cả làng nếu ngài giết chúng.
- Thì chúng là những đứa có trách nhiệm đấy chứ, Aprile mỉa mai nói. Ta sẽ làm mếch lòng chúng nếu chúng không chịu chung số phận với ngài.
Đến lúc này Astorre, dù đầu óc còn non nớt, cũng hiểu ra rằng người ta đang nói về sự sống và cái chết. Cậu thì thầm
- Bác ơi, đừng làm đau ông ấy. Aprile không phản ứng gì về những điều đã nghe.
- Cứ tiếp đi, lão nhắc Fissolini.
Fissolini ném vào lão cái nhìn dò hỏi, vừa ngạo mạn vừa cảnh giác.
- Tôi không cầu xin tha mạng cho tôi. Nhưng mười người đang nằm đây đều là máu mủ ruột ra của gia đình tôi. Ngài giết chúng là giết luôn vợ con chúng. Ba trong số đó là con rể tôi. Chúng hoàn toàn trung thành với tôi. Chúng tin vào ý kiến của tôi. Nếu ngài để chúng đi, tôi sẽ bắt chúng thề trung thành vĩnh viễn với ngài trước khi tôi chết. Chúng sẽ nghe lời tôi. Có mười người bạn trung thành quả là có ý nghĩa. Người ta nói với tôi ngài là một người cao quý, nhưng ngài không thể là một người cao quý nếu không tỏ ra rộng lượng. Ngài không thể cố tỏ ra rộng lượng được, nhưng chỉ xin ngài một lần này. Y mỉm cười với Astorre.
Với Trùm Raymonde Aprile đây là một thời điểm quen thuộc, và lão không hề nghi ngờ quyết định của mình. Lão chẳng bao giờ tin vào sức nặng của lòng biết ơn. Lão tin chẳng có ma nào có thể điều khiển được ý chí tự do trong mỗi con người ngoại trừ cái chết. Lão xem Fissolini là kẻ lạnh lùng và lão lắc đầu. Bianco tiến lên phía trước.
Astorre bước về phía bác cậu và nhìn thẳng vào mắt lão. Cậu đã hiểu mọi chuyện. Cậu sẵn sàng bênh vực Fissolini.
- Ông ấy không làm bác cháu mình đau, Astorre nói. Ông ấy chỉ muốn tiền của chúng ta thôi.
Ông Trùm mỉm cười rồi nói
Và điều đó chẳng là gì chứ?
Astorre đáp,
- Nhưng đó là một lý do tốt. Ông ấy cần tiền để nuôi gia đình. Và cháu quý ông ấy. Làm ơn đi bác.
Trùm Aprile mỉm cười với cậu và nói
- Hoan hô. Rồi lão im lặng hồi lâu làm như không biết Astorre đang giật mạnh tay mình. Và, lần đầu tiên trong nhiều năm lão cảm thấy phải thể hiện lòng nhân từ.
Người của Bianco đốt những điếu xì gà nhỏ, rất nặng. Khói xì gà bay lên không trung lúc bình minh rồi được làn gió nhẹ mang theo vào trong núi. Một gã trong đám người bước lên lấy từ trong chiếc túi đi săn một điếu xì gà mới mời Aprile. Bằng hiểu biết trẻ thơ Astorre cũng hiểu rằng đó không chỉ là thái độ lịch sự mà còn là cách bày tỏ lòng kính trọng. Ông Trùm cầm điếu xì gà, còn người kia châm lửa cho lão trong hai lòng bàn tay khum lại. Ông trùm chậm rãi rít điếu thuốc rồi nói
- Ta không muốn làm nhục ngài bằng việc tỏ lòng nhân từ. Nhưng ta sẽ yêu cầu ngài một thỏa thuận làm ăn. Ta nhận ra ngài không ác tâm và ngài đã thể hiện lòng kính trọng cao cả đối với ta và cháu ta. Vì vậy đây chính là thỏa thuận. Ngài sống. Người của ngài cũng sống. Nhưng trong quãng đời còn lại của ngài, ngài phải nghe theo lệnh ta.
Astorre cảm thấy cực kỳ nhẹ nhõm, và cậu mỉm cười với Fissolini. Cậu quan sát thấy Fissolini quỳ xuống rồi hôn tay Trùm Aprile. Cậu nhận ra rằng những người đàn ông vũ trang ở xung quanh rít thuốc dữ dội, và cả Bianco uy nghi như một quả núi cũng run lên vì vui mừng.
Fissolini lẩm bẩm,
- Đội ơn ngài, thưa quý ngài.
Ông Trùm ném điếu xì gà xuống một tảng đá gần đấy.
- Ta nhận lời cảm tạ của ngài, nhưng ngài phải hiểu rằng Bianco đến đây để bảo vệ ta và ngài cũng sẽ làm công việc này. Ta trả Bianco một khoản tiền, mỗi năm ta cũng sẽ trả ngài từng nấy. Nhưng chỉ cần một hành động phản bội thôi, cả ngài và thế giới của ngài sẽ bị hủy diệt. Ngài, vợ ngài, các con của ngài, các cháu của ngài, các con rể của ngài sẽ chấm dứt cuộc sống.
Fissolini đứng lên ôm lấy lão và òa khóc.
Thế rồi ông Trùm và đứa cháu trở nên gắn bó hơn. Lão yêu cậu vì cậu đã thuyết phục lão mở lòng nhân ái, còn Astorre yêu lão vì lão đã nghe lời cậu mà tha mạng cho Fissolini và mười người của y. Mối quan hệ này kéo dài cho đến cuối đời.
Đêm cuối cùng tại Villa Grazia, Trùm Aprile ngồi uống cà phê trong vườn còn Astorre ăn trái ô liu lấy từ thùng chứa. Astorre rất trầm tư, không giống với tính tình cởi mở thường ngày của cậu.
- Cháu có buồn vì phải rời Sicily không? Lão hỏi.
- Cháu ước gì được sống mãi ở đây, Astorre trả lời. Cậu nhét hạt ôliu vào túi.
- Thôi được, bác cháu ta hè nào cũng sẽ đến đây. Lão nói.
Astorre nhìn lão như nhìn một người bạn già thông thái, khuôn mặt trẻ trung của cậu đượm vẻ lo lắng.
- Bà Caterina có phải là bạn gái của bác không?
Aprile phì cười - Bà ấy là bạn tốt của bác.
Astorre nghĩ ngợi. Thế các anh chị cháu có biết bà ấy không?
- Không, các con bác không biết. Một lần nữa lão bị cậu làm cho kinh ngạc và lão tự hỏi còn chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo.
Astorre lúc này rất nghiêm trang,
- Các anh chị cháu có biết bác có những người bạn dữ dằn như Bianco sẵn sàng làm mọi cái bác bảo họ phải làm hay không? - Không.
- Cháu cũng sẽ không nói với các anh chị ấy bất cứ điều gì, kể cả việc bị bắt cóc.
Ông Trùm cảm thấy lòng tự hào trào dâng. Ometa đã ngấm vào máu nó rồi
Khuya đêm hôm đó, một mình, Astorre đi đến góc xa của khu vườn. Với đôi bàn tay trần cậu đào một cái hố. Cậu thả vào đó những hạt ô liu đã kín đáo bỏ trong túi. Cậu ngước mắt nhìn lên bầu trời Sicily xanh nhợt và mơ thấy mình là một người già giống như bác cậu, vào một đêm tương tự, đang ngồi trong khu vườn này nhìn những cây ô liu này vươn cao.
Sau vụ đó, ông Trùm tin mọi cái đều có số. Cho đến khi Astorre mười sáu tuổi, năm nào lão và cậu cũng đến Sicily. Trong ký ức lão một hình ảnh đang hình thành – nét phác thảo lờ mờ về định mệnh của Astorre.
Người gây ra khủng hoảng đẩy Astorre vào định mệnh đó là con gái lão. Ở tuổi mười tám, hơn Astorre hai tuổi, Nicole phải lòng cậu. Với tính tình bốc lửa của mình, nàng khó mà giấu được sự thật. Nàng hoàn toàn lấn át chàng trai đa cảm. Với tất cả sự mãnh liệt nồng nàn của tuổi trẻ họ trở nên thân thiết.
Ông Trùm không thể cho phép tồn tại một câu chuyện như vậy, nhưng là một vị tướng lão phải điều chỉnh chiến thuật sao cho phù hợp với địa hình, địa vật. Lão chẳng khi nào bóng gió về những gì lão biết trong chuyện này.
Một đêm lão gọi Astorre vào phòng riêng và cho biết lão sẽ gửi cậu sang Anh học nghề trong lĩnh vực ngân hàng vời một ông Pryor nào đó ở Luân Đôn. Lão không đưa ra thêm lý do nào khác sợ rằng cậu sẽ nhận thấy mình bị tống khứ khỏi nhà để chấm dứt vụ việc. Có điều lão không để ý đến con gái mình đang lắng nghe bên ngoài cánh cửa. Nàng ào vào phòng như một cơn bão, sự giận dữ càng làm nàng đẹp hơn.
- Ba không được đưa anh ấy đi khỏi đây, nàng hét lên. Chúng con sẽ rời khỏi nhà này.
Lão tủm tỉm cười và lên giọng dỗ dành
- Cả hai con đều phải học hành cho xong đã.
Nicole quay sang Astorre lúc này đang đỏ mặt vì bối rối.
- Astorre, anh sẽ không đi chứ? Nàng hỏi, Phải vậy không?
Astorre không trả lời, và Nicole òa khóc.
Làm cha thật khó mà không động lòng trước cảnh này. Nhưng lão thì khoái lắm. Con gái lão bảnh quá, một Mafioso chính cống có giác quang già dặn, một báu vật thật sự. Bất chấp điều đó, hàng tuần liền nàng từ chối tiếp chuyện cha và giam mình trong phòng. Nhưng ông Trùm đâu có ngán, con gái lão đâu phải loại người có thể tan nát cõi lòng mãi vì một thằng đàn ông được.