Bây giờ với nhất cử nhất động của mình, Astorre đều hết sức thận trọng. Không chỉ để tránh một vụ mưu sát mà còn không cho phép mình bị bắt vì bất kỳ lý do nào. Chàng ở lỳ trong nhà mình với những đội bảo vệ năm người gác suốt ngày đêm. Chàng cho lắp đặt những thiết bị báo động ở trong rừng và trên mặt đất quanh nhà, sử dụng thiết bị hồng ngoại để giám sát vào ban đêm. Khi chàng liều rời khỏi nhà, luôn luôn có sáu vệ sĩ chia làm ba tổ hai người đi kèm. Việc đánh bom hai thám tử là cần thiết nhưng nó lại làm tăng cường các hoạt động của cảnh sát. Và khi Aspinella Washington bình phục mụ sẽ đoán ra chính Heskow đã phản lại mụ. Nếu Heskow tiết lộ thì mụ sẽ bám theo chính chàng.
Cho đến bây giờ chàng đã hiểu tầm vóc lớn lao của vấn đề. Chàng biết tất cả những kẻ dính líu vào cái chết của ông Trùm bác mình và những vấn đề nghiêm trọng đang đợi chàng ở phía trước. Đó là Kurt Cilke, người không được động tới, Timmona Portella, Grazziella, và viên tổng lãnh sự quán Peru. Những kẻ mà chàng đã trừng phạt là anh em Sturzo, song chúng lại chỉ là những con tốt.
Tất cả các thông tin đến từ John Heskow, ông Pryor, Trùm Craxxi và Octavious Bianco ở Sicily. Nếu có thể, chàng phải chộp cho được toàn bộ kẻ thù của mình tại một nơi trong cùng một lúc. Hạ chúng từng tên một cách chắc chắn là không thể. Mà Pryor và Craxxi đã cảnh báo chàng không được đụng đến Cilke.
Và rồi còn tổng lãnh sự Peru, Mariano Rubio, nhân tình của Nicole nữa. Nàng trung thành với y đến mức độ nào? Nàng đã xoá những gì mà nàng không muốn Astorre thấy trong hồ sơ về ông Trùm của FBI? Nàng còn giấu chàng những gì?
Vào những khoảnh khắc thảnh thơi Astorre mơ thấy những người phụ nữ chàng đã yêu. Đầu tiên là Nicole, trẻ trung và thông minh, thân hình mảnh mai thanh nhã của nàng nồng nàn đến nỗi nàng đã buộc được chàng chấp nhận yêu nàng. Bây giờ nàng đã thay đổi quá nhiều. Chính trị và công việc đã cuốn hút niềm đa mê của nàng.
Chàng nhớ Buji ở Sicily, không hẳn là gái điếm nhưng cũng gần như thế. Chàng nhớ chiếc giường êm ái của ả trong những đêm yên tĩnh ở Sicily, những lúc họ cùng bơi và ăn quả ôliu lấy từ thùng ngâm. Chàng nhớ ả chẳng bao giờ nói dối; ả hoàn toàn thành thật về cuộc sống của mình, về những người đàn ông khác của ả. Và lòng trung thành của ả khi chàng bị bắn, ả đã kéo chàng vào bờ ra sao, máu từ vết thương trên cổ chàng nhuốm đầy người ả. Rồi quà tặng của ả - cái vòng cổ bằng vàng có mặt dây chuyền để che đi cái vết thương khủng khiếp.
Rồi chàng nghĩ đến Rosie, một Rosie phụ bạc, ngọt ngào, xinh xắn và lãng mạn. Người luôn luôn tự cho là thực sự yêu chàng trong khi vẫn liên tục phản bội chàng. Tuy nhiên nàng đã luôn làm chàng vui vẻ khi quấn quýt bên nhau. Chàng đã từng muốn xoá sạch tình cảm của mình đối với nàng bằng việc dùng nàng chống lại anh em Sturzo, và chàng ngạc nhiên thấy nàng thích thú với vai diễn đó.
Rồi hình ảnh vợ Cilke, Georgette, thoáng qua tâm trí chàng như một bóng ma. Thật là vớ vẩn. Chàng có một tối ngắm nhìn chị, nghe chị nói những điều nhảm nhí mà chàng chẳng hề tin về những gì quý giá trong tâm hồn con người. Vậy mà chàng không thể nào quên chị. Làm thế quái nào Georgette lại lấy một thằng cha như Kurt Cilke kia chứ?
Thỉnh thoảng, vào ban đêm, Astorre đến khu Rosie đang sống và gọi cho nàng bằng điện thoại trên xe. Nàng luôn luôn ở nhà một mình và điều đó làm chàng ngạc nhiên. Nhưng nàng giải thích rằng nàng quá bận học hành không thể đi chơi được. Như thế lại hoá hay vì chàng rất thận trọng không muốn đi ăn hiệu hay đưa nàng đi xem phim. Thay cho những việc đó, chàng ghé vào tiệm Zabar ở khu East Side để mua những món đặc sản đem về. Trong lúc đó Monza vẫn ngồi chờ trên xe.
Rosie dọn bàn ăn và mở một chai vang. Trong bữa ăn Rosie gác hai chân lên đùi chàng một cách thân tình và khuôn mặt nàng rạng ngời hạnh phúc vì được bên chàng, đón nhận từng lời nói của chàng với nụ cười tươi tắn. Đấy là phần thưởng của nàng và Astorre thừa biết nàng làm như thế với tất cả đám đàn ông của nàng. Nhưng điều đó có ý nghĩa gì đâu.
Rồi khi họ lên giường, nàng không chỉ nồng nàn đắm đuối mà còn ngọt ngào và quấn quýt. Nàng vuốt ve khắp mặt chàng, hôn chàng và nói
- Chúng mình thực sự là chỗ bạn bè chí cốt.
Những lời nói đó như một gáo nước lạnh dội xuống người chàng. Astorre không muốn nàng là chí cốt với một kẻ như chàng. Chàng khao khát vẻ trong trắng cổ điển, tuy nhiên lại chẳng thể nào cắt được mối quan hệ với nàng.
Chàng ở lại năm hoặc sáu tiếng đồng hồ. Vào ba giờ sáng chàng sẽ ra đi. Thỉnh thoảng khi nàng đang ngủ, chàng lại nhìn nàng đăm đăm và nhận thấy bên trong nàng là trạng thái dễ bị tổn thương và giằng xé cứ như thể lũ quỷ bị nàng nhốt mãi nơi thẳm sâu của tâm hồn đang đòi được tự do.
Một đêm chàng sớm chia tay Rosie. Khi lên xe Monza báo với chàng rằng có một lời nhắn phải gọi lại gấp cho một ngài Juice nào đó. Đấy là mật danh chàng và Heskow dùng. Thế là chàng lập tức chụp lấy ống nghe.
Giọng Heskow khẩn thiết.
- Tôi không thể nói qua điện thoại. Chúng ta phải gặp nhau ngay bây giờ.
- Ở đâu? Astorre hỏi.
- Tôi sẽ đứng ngay bên ngoài Madison Square Garden, Heskow nói. Hãy bí mật đón tôi sau một giờ nữa.
Khi Astorre đến gần Garden, chàng thấy Heskow đang đứng trên vỉa hè. Monza đặt súng lên đùi lúc cho dừng xe trước mặt Heskow. Astorre mở cửa và Heskow nhảy lên băng ghế trước. Cái ghế lạnh để lại những vết lợt trên má y. Y nói với Astorre,
- Cậu có rắc rối lớn đấy.
Astorre có cảm giác ớn lạnh.
- Bắt cóc à? Chàng hỏi.
Heskow gật đầu. Portella đã chộp người bà con Marcantonio của cậu và đã cho giam giữ anh ta ở một nơi nào đó. Tôi không biết là nơi nào. Sáng mai hắn sẽ mời cậu tới thương thảo. Hắn muốn trao đổi một thứ gì đó lấy con tin của hắn. Nhưng nếu cậu bất cẩn, hắn sẽ để đội ám sát bốn người của hắn đưa cậu vào vòng ngắm. Hắn sử dụng người của chính hắn. Hắn giao việc này cho tôi nhưng tôi đã từ chối.
Họ đang ở trên một đường phố tối tăm.
- Cảm ơn, Astorre nói. Tôi để anh xuống chỗ nào đây?
- Chỗ này. Xe tôi đậu cách đây một dãy nhà.
Astorre hiểu. Heskow lo sợ bị phát hiện cặp kè bên chàng.
- Còn một việc nữa, Heskow nói. Cậu biết căn hộ của Portella tại khách sạn của hắn chứ? Em hắn, Bruno, đang sử dụng nó đêm nay để hú hí với một ả đàn bà. Và không hề có vệ sĩ.
- Một lần nữa xin cảm ơn anh, Astorre nói. Chàng mở cửa xe và Heskow biến vào bóng đêm.
Marcantonio đang dự cuộc họp cuối cùng trong ngày. Gã muốn nó diễn ra ngắn gọn. Lúc này là bảy giờ tối, và gã còn dự tiệc chiêu đãi lúc chín giờ.
Cuộc họp diễn ra với một nhà sản xuất có tiếng tăm và cũng là người bạn tốt nhất trong lĩnh vực điện ảnh – Steve Brody, người chẳng bao giờ xem xét kỹ càng kế hoạch chi tiêu, người có tài đánh hơi những sáng tác gây ấn tượng và thường giới thiệu Marcantonio với những diễn viên trẻ có triển vọng đang cần được giúp đỡ ít nhiều trong sự nghiệp.
Nhưng tối nay họ là đối thủ của nhau. Brody đến cùng một trong những đại diện quyền lực nhất trên thương trường có tên là Matt Glazzier. Y đến đây, lấy cớ vì một tiểu thuyết gia. Tác phẩm cuối cùng của người này được y chuyển thể thành kịch bản của loạt phim truyền hình dài tám tiếng. Bây giờ Glazier muốn bán tiếp ba cuốn sách trước đó của ông ta.
- Marcantonio, Glazier nói, ba cuốn sách này rất khá nhưng không bán được. Cậu biết rõ mấy thằng bên xuất bản mà – chúng không thể bán một lọ trứng cá muối lấy năm đô được. Brody đã sẵn sàng bắt tay vào sản xuất. Cậu đã kiếm được cả một đống tiền nhờ cuốn sách cuối cùng của nó, vì vậy hãy hào phóng một tý để bọn mình còn làm hợp đồng.
- Tôi đếch quan tâm, Marcantonio nói. Đấy là những cuốn sách cũ. Chúng chưa bao giờ là sách bán chạy. Và bây giờ chúng cũng không còn được bán nữa.
- Chuyện đó thì nhằm nhò gì, Glazier nói với vẻ quả quyết của tất cả các nhà đại diện. Ngay sau khi chúng ta ký kết hợp đồng, bên xuất bản sẽ cho tái bản.
Marcantonio đã nghe luận cứ này nhiều lần trước đó. Đúng, bên xuất bản sẽ tái bản, nhưng thực ra việc này chẳng giúp gì nhiều cho truyền hình trong khi truyền hình lại giúp được nhiều hơn cho các nhà xuất bản. Đây đúng là một cuộc tranh cãi vô bổ.
- Dẹp cả đi, Marcantonio nói. Tôi đã đọc mấy cuốn đó rồi. Chúng quá văn vẻ. Ngôn ngữ nhiều nhưng không có sự kiện. Tôi không nói là chúng không hay. Tôi chỉ nói không đáng phải liều và cố công với chúng.
- Đừng có loè tôi, Glazier nói. Cậu đọc mục ý kiến bạn đọc chứ gì. Cậu lãnh đạo bộ phận lập chương trình thì làm gì có thời gian mà đọc.
Marcantonio bật cười.
- Cậu nhầm. Tôi thích đọc và tôi thích mấy cuốn đó. Nhưng chúng không hợp với truyền hình. Giọng gã ấm áp, thân tình.
- Tôi rất tiếc, nhưng với chúng ta việc này coi như chấm dứt. Tuy nhiên, hãy nhớ đến chúng tôi. Chúng tôi rất muốn hợp tác với cậu.
Sau khi hai vị khách ra về, Marcantonio tắm táp, thay đồ đi dự chiêu đãi. Gã chào tạm biệt thư ký của mình - người luôn luôn ở lại cho đến khi gã rời cơ quan, rồi đón thang máy xuống tiền sảnh của toà nhà. Bữa chiêu đãi được tổ chức tại nhà hàng Bốn Mùa, chỉ cách đấy vài dãy nhà. Không giống như hầu hết các tổng giám đốc, anh không dùng xe và lái xe riêng. Khi cần gã sẽ gọi một chiếc. Gã hãnh diện về sự tiết kiệm của mình và biết rằng gã đã học được điều đó từ cha gã, người có thành kiến nặng với việc lãng phí tiền bạc vào những điều ngu xuẩn.
Khi bước ra đường, gã cảm thấy một luồng gió lạnh và bỗng rùng mình. Một chiếc xe Limousine màu đen dừng lại, rồi người tài xế bước xuống mở cửa mời gã. Chả lẽ tay thư ký đã gọi xe giúp? Tay lái xe là một người cao lớn và khoẻ mạnh. Chiếc mũ lưỡi trai quá nhỏ so với đầu. Hắn cúi chào và hỏi,
- Ngài Aprile phải không ạ?
- Tôi đây, Marcantonio trả lời. Đêm nay tôi không cần anh.
- Ngài cần đấy, hắn nói và nở một nụ cười vui vẻ. Lên xe, không thì ăn đạn.
Ngay lúc đó Marcantonio nhận thấy có ba người đàn ông ở sau lưng mình. Gã do dự. Tên lái xe tiếp tục,
- Đừng lo, một người bạn muốn tâm sự với ngài chút đỉnh.
Marcantonio lên băng ghế sau của chiếc Limousine, ba người đàn ông vây quanh gã.
Họ đi qua một hoặc hai dãy nhà và sau đó một tên đưa cho gã cặp kính đen và yêu cầu gã đeo. Marcantonio lam theo và từ đấy gã như người mù. Hai mắt kính quá đen che hết cả ánh sáng. Thật khôn ngoan, gã nghĩ, và lưu ý trong đầu sẽ sử dụng tình tiết này vào một câu chuyện. Đây cũng là một tia hy vọng. Nếu chúng không muốn gã biết mình đi đâu tức là chúng không có ý định giết gã. Toàn bộ câu chuyện này cứ như bịa giống hệt một trong những vở kịch trên truyền hình của gã. Rồi bỗng nhiên gã nghĩ về cha mình. Cuối cùng gã đã có mặt trong thế giới của người cha, cái thế giới mà gã chưa bao giờ hoàn toàn tin tưởng.
Khoảng một tiếng sau chiếc xe dừng lại và gã được hai kẻ áp tải đỡ xuống. Gã có thể cảm thấy con đường mòn lát gạch dưới chân mình. Rồi gã được dẫn vào một ngôi nhà, leo hơn một nhịp cầu thang đến một căn phòng, cánh cửa ra vào đóng lại ở phía sau. Chỉ đến lúc đó cặp kính mới được gỡ ra. Gã đang ở tỏng một phòng ngủ nhỏ có những cửa sổ che rem kín mít. Một trong những tên gác ngồi xuống chiếc ghế tựa ngay bên cạnh giường.
- Nằm xuống ngủ ngáy một chút đi, tên gác nói. Ngài còn cả một ngày vất vả phía trước đấy. Marcantonio nhìn đồng hồ. Đã nửa đêm rồi.
Hơn bốn giờ sáng Astorre và Aldo Monza đến trước khách sạn Lyceum, gã lái xe chờ ở mặt tiền. Chùm chìa khoá của Monza kêu lách cách khi họ chạy lên ba nhịp cầu thang tới trước cửa căn phòng bí mật của Portella.
Monza dùng chìa khoá của mình để mở cửa, rồi họ vào phòng khách. Họ thấy một chiếc bàn bày bừa la liệt những hộp đồ ăn Tàu, những chiếc ly không, những chai vang và Whiskey. Một chiếc bánh nướng đánh kem rất to đã bị ăn một nửa với một điếu thuốc hút dở cắm lên trên trông như một cây nến sinh nhật. Họ vào phòng ngủ. Astorre bật công tắc đèn gắn trên tường. Ở đó, vận chiếc xà lỏn và nằm dài trên giường là Bruno Portella.
Không khí nồng nặc mùi nước hoa nhưng chỉ có một mình Bruno. Trông gã không được đẹp mắt cho lắm. Mặt gã nặng nề, uể oải, bóng loáng mồ hôi. Mùi hải sản tanh nồng bốc ra từ miệng gã. Bộ ngực đồ sộ làm gã giống như một con gấu, và thực tế, gã có cái vẻ dịu dàng của một con gấu nhồi bông. Cạnh chân giường có một chai vang đỏ đã mở. Có lẽ sẽ là bất nhã nếu đánh thức gã, và Astorre làm điều đó một cách nhẹ nhàng bằng cách vỗ vào trán gã.
Bruno mở một mắt, rồi mở nốt mắt kia. Gã không có vẻ sợ hãi, thậm chí chẳng hề ngạc nhiên.
- Tụi mày làm cái chó chết gì vậy hả? Giọng gã khàn khàn ngái ngủ.
- Bruno, chẳng có gì phải lo lắng cả, Astorre nhẹ nhàng nói. Cô gái đâu rồi?
Bruno ngồi dậy. Gã cười hềnh hệch. Nó phải về nhà sớm để đưa con đến trường. Tao đã phang nó ba lần trước khi để nó về, gã nói, không che giấu niềm kiêu hãnh về khả năng tình dục mạnh mẽ cũng như hiểu biết của gã về những vấn đề của một gái làng chơi. Một cách ngẫu nhiên gã với tay về phía chiếc bàn kê cạnh giưòng. Astorre nhã nhặn giữ tay gã lại còn Monza mở ngăn kéo và lấy ra khẩu súng.
- Nghe đây, Bruno, Astorre vỗ về. Sẽ không có chuyện gì tồi tệ xảy ra cả. Tôi biết anh ngài chẳng hề bàn bạc với ngài, nhưng ông ta đã bắt cóc anh họ tôi đêm hôm qua. Vì thế bây giờ tôi phải đổi ngài lấy anh ấy. Anh ngài yêu thương ngài, Bruno ạ, ông ấy sẽ chấp nhận trao đổi thôi. Ngài tin điều đó chứ?
- Tất nhiên rồi, Bruno nói. Trông gã nhẹ nhõm hẳn.
- Chỉ không được làm điều gì ngốc nghếch mà thôi. Giờ thì mặc quần áo vào.
Mặc đồ xong, Bruno hình như lại gặp rắc rối trong việc buộc dây giầy.
- Có chuyện gì vậy? Astorre hỏi.
- Đây là lần đầu tao đi đôi giày này, Bruno nói. Tao thường đi giày không dây.
- Ngài không biết cột dây giày chứ gì? Astorre hỏi
- Đây là đôi giày có dây đầu tiên của tao mà lại.
Astorre bật cười
- Lạy chúa. Thôi được, tôi sẽ cột hộ.
Khi làm xong, Astorre nhấc máy điện thoại ở đầu giường đưa cho Bruno. Hãy gọi cho anh ngài, chàng ra lệnh.
- Vào lúc năm giờ sáng ư? Bruno hỏi. Timmona sẽ giết tao mất.
Astorre nhận ra rằng không phải việc mất ngủ làm đầu óc Bruno lú lẫn, mà thực sự gã là một kẻ đần độn.
- Chỉ nói rằng tôi đã chộp được ngài. Sau đó tôi sẽ nói với ông ấy.
Bruno cầm ống nghe và rên rỉ nói,
- Timmona, anh đẩy tôi vào những chuyện rắc rối, đấy là lý do tôi gọi cho anh sớm thế này.
Astorre có thể nghe thấy tiếng la lối qua điện thoại, rồi Bruno gấp gáp nói
- Astorre Viola đang giữ tôi và nó muốn nói chuyện với anh. Gã nhanh chóng chuyển ống nghe cho Astorre.
Astorre nói
- Thưa ngài Timmona, rất tiếc đã đánh thức ngài. Tôi buộc phải bắt Bruno vì ngài đang giữ anh họ tôi.