Old school Swatch Watches
Không bấm vùng phía trên kẻo mất tiền nhé!

Ngày thứ ba, Bern, Thuỵ Sĩ
Thứ tư ngày 17 tháng Mười
Bern là một trong những thành phố mà Robert yêu thích nhất. Nó duyên dáng, đầy những tượng đài thật đáng yêu và những ngôi nhà cổ bằng đá tuyệt đẹp được xây dựng từ hồi thế kỷ 18. Nó là thủ đô của Thuỵ Sĩ, là một trong những thành phố phồn vinh nhất của nước nầy, và Robert cứ băn khoăn không biết những chiếc xe điện màu xanh lá cây có liên quan gì tới màu sắc của đồng tiền không. Anh thấy rằng người dân ở Bern dễ chịu hơn những người dân ở các vùng khác của Thuỵ Sĩ. Họ đi lại khoan thai hơn, nói năng chậm rãi hơn và nhìn chung là điềm đạm hơn. Trước đây anh đã có mấy lần làm việc ở Bern với Cục An ninh Thuỵ Sĩ, trong trụ sở Waisenhauspoatz của họ. Anh có bạn bè có thể giúp ích ở đó, nhưng những chl thị đối với anh là rõ ràng.
Khó hiểu, nhưng rõ ràng. Phải mất mười lăm phút gọi điện thoại Robert mới tìm ra được cái gara đã chữa xe của tay thợ ảnh kia. Đó là một xưởng nhỏ ở Fribourgstrasse, và người thợ máy, Fritz Mandel, cũng đồng thời là ông chủ. Mandel có lẽ vào cuối tuổi bốn mươi, với một khuôn mặt dễ sợ, đầy mụn trứng cá, một thân hình gầy gò và một cái bụng phệ ra vì bia. Khi Robert đến, ông ta đang làm việc trong cái kho chứa dầu mỡ.
- Xin chào, - Robert lên tiếng.
Mandel ngẩng lên.
- Xin chào. Tôi có thể làm gì cho ông?
- Tôi quan tâm tới một chiếc xe mà ông đã mang về đây hôm chủ nhật.
- Đợi một chút, để tôi làm xong cái nầy đã.
Mười phút sau, Mandel chui ra và chùi hai bàn tay đầy dầu mỡ vào một cái giẻ bẩn thỉu.
- Chính ông là người đã gọi điện sáng nay? Có chuyện phàn nàn về việc ấy à? - Mandel hỏi. - Tôi không chịu trách nhiệm về…
- Không, - Robert đảm bảo với ông ta. - Không có gì cả. Tôi đang tiến hành một điều tra và tôi quan tâm tới người lái chiếc xe đó.
- Mời vào văn phòng!
Hai người đi vào một văn phòng nhỏ và Mandel mở một tủ đựng giấy tờ.
- Ông nói chủ nhật trước à?
- Đúng vậy.
Mandel lấy ra một tấm các.
- À! Cái tay đã chụp tấm hình trước cái vật thể bay lạ đó chứ gì.
Hai bàn tay Robert chợt ướt đẫm mồ hôi.
- Ông đã nhìn thấy cái vật thể bay lạ đó à?
- Phải. Tôi gần như chết lặng.
- Ông có thể mô tả lại không?
Mandel nhún vai.
- Nó - nó dường như đang hoạt động.
- Ông nói gì cơ?
- Ý tôi nói, có một thứ ánh sáng quanh nó. Nó liên tục thay đổi màu sắc. Nó có màu xanh da trời… rồi xanh lục trong không biết. Rất khó mô tả. Và có những sinh vật nhỏ bé trong đó. Không phải là con người, nhưng… - Ông ta ngừng bặt.
- Bao nhiêu?
- Hai.
- Họ còn sống không?
- Tôi thấy họ như đã chết. - Ông ta nhíu mầy. - Tôi sung sướng là ông đã tin tôi. Tôi đã nói với bạn bè, song họ đều cười nhạo tôi. Ngay cả vợ tôi cũng nghĩ là tôi đã say. Nhưng mà tôi biết tôi đã nhìn thấy gì chứ.
- Về cái xe mà ông đã kéo đi… - Robert nói.
- À. Chiếc Renault. Nó bị chảy dầu và những đệm lót bị cháy. Việc kéo nó đi phải trả một trăm hai mươi lăm francs. Chủ nhật, tôi tính gấp đôi.
- Người lái xe trả bằng séc hay thẻ tín dụng hả?
- Tôi không nhận séc cũng như thẻ tín dụng. Anh ta trả bằng tiền mặt.
- Francs Thuỵ Sĩ chứ?
- Đồng bảng.
- Ông có chắc không?
- Chắc. Tôi nhớ là đã phải kiểm tra tỉ giá hối đoái mà.
- Ông Mandel, ông có tình cờ biết gì về cái biển số của chiếc xe đó không?
- Tất nhiên. - Mandel liếc nhìn tấm các. - Đó là một chiếc xe đi thuê. Avis. Anh ta thuê nó ở Geneva.
- Ông có thể cho tôi cái số xe đó không?
- Được có gì đâu? Ông ta viết những con số lên một mẩu giấy và trao nó cho Robert. - Mà có chuyện gì vậy? Cái vật thể bay lạ kia à?
- Không, - Robert nói với một giọng chân thành nhất. Anh móc ví và lấy ra một tấm thẻ chứng minh. - Tôi ở IAC, Câu lạc bộ ô tô Quốc tế. Hãng của tôi đang làm một nghiên cứu điều tra về những xe kéo.
- Ồ.
***
Robert rời khỏi cái gara, trong lòng bàng hoàng.
Có vẻ như chúng ta có trong tay một vật thể bay lạ khốn kiếp và hai sinh vật lạ chết trên đó. Vậy thì tại sao tướng Hilliard nói dối anh khi mà ông ta biết Robert sẽ phát hiện rằng đó là một chiếc đĩa bay bị đâm xuống đất?
Chỉ có thể có một lời giải thích, và đột nhiên Robert cảm thấy rùng mình ớn lạnh.


Chiếc phi thuyền mẹ khổng lộ lặng lẽ treo lơ lửng trong khoảng không gian vũ trụ tối sẫm, dường như bất động, đang di chuyển với tốc độ hai mươi hai nghìn dặm một giờ, đồng bộ một cách chính xác với quỹ đạo của trái đất. Sáu sinh vật lạ ở trên phi thuyền đang chăm chú lên chiếc màn hình quang học có thị trường ba chiều chiếm cả một bức tường của phi thuyền.
Trên màn hình, trong khi hành tinh trái đất quay, họ theo dõi những hình ảnh tự động hiện lên về những gì ở phía dưới đồng thời một máy quang phổ điện tử phân tích về thành phần hoá học của những hình ảnh vừa xuất hiện. Bầu khí quyển của những vùng đất mà họ đang bay qua bị ô nhiễm nặng nề. Những nhà máy lớn làm bẩn không khí với những khí thải độc hại, dầy và đen đặc trong khi những chất thải không thể bị phân huỷ nhờ vi khuẩn được đổ đầy những bãi thải và xuống biển.
Những sinh vật lạ nầy chìm xuống những đại dương, đã có thời hoang sơ và trong xanh, giờ đây đen ngòm vì dầu và nâu vàng vì những chất cặn bã. Mầu hồng rực của vùng Vách Chắn lớn đang ngả sang trắng nhợt và hàng tỉ con cá đang chết dần chết mòn. Nơi cây cối bị chặt hạ ở vùng rừng nhiệt đới Amazon giờ đây là một khoảng trống lớn, khô cằn. Những máy móc trên phi thuyền cho thấy nhiệt độ ở trái đất đã tăng lên kể từ cuộc thám hiểm trước của họ cách đây ba năm. Họ có thể nhìn thấy những cuộc chiến tranh đang được tiến hành trên trái đất phía dưới, phun thêm những chất độc mới vào bầu khí quyển.
Những sinh vật lạ nầy trao đổi với nhau bằng thần giao cách cảm.
- Con người trên trái đất đã không có gì thay đổi.
Thật đáng buồn. Họ đã không học được gì cả.
- Chúng ta sẽ dạy họ.
- Anh đã thứ liên lạc với những thành viên kia chưa?
- Rồi. Có chuyện trục trặc. Không có trả lời.
- Anh phải tiếp tục cố xem.
- Chúng ta phải tìm thấy con tàu.
Trên trái đất, phía dưới quỹ đạo của chiếc phi thuyền không gian kia hàng cây số Robert đã đặt một cú điện thoại cho tướng Hilliard từ một máy điện thoại an toàn. Dường như ông ta có mặt ở đầu dây ngay lập tức.
- Xin chào ông sĩ quan ông có gì để báo cáo không hả?
Có. Tôi muốn nói rằng ông là một thằng chó đẻ dối trá.
- Về quả bóng thám không đó, thưa ngài… hoá ra đó có thể là một vật thể bay lạ.
Anh chờ đợi.
- Phải, tôi biết. Có những lý do an ninh quan trọng mà tôi đã không thể nào nói hết với anh trước đó.
Cái trò hai mặt quan cách. Một thoáng im lặng.
Tướng Hilliard nói:
- Ông sĩ quan, tôi sắp nói với ông một điều tuyệt mật. Cách đây ba năm, chính phủ chúng ta đã phải đối mặt với những sinh vật lạ. Họ đã hạ cánh xuống một trong những căn cứ thuộc khối NATO của chúng ta. Chúng ta đã giao tiếp được với họ.
- Họ… họ đã nói gì ạ? - Robert cảm thấy tim mình đập rộn lên.
- Họ nói rằng có ý định tiêu diệt chúng ta.
- Tiêu diệt chúng ta ư? - Anh cảm thấy rùng mình.
- Đúng vậy. Họ nói sẽ trở lại để chiếm lấy hành tinh nầy và biến chúng ta thành nô lệ, và rằng chúng ta không có cách gì để ngăn cản họ được. Chưa có. Nhưng chúng ta đang tìm. Chính bởi vậy, điều khẩn cấp là chúng ta phải tránh nỗi kinh hoàng cho dân chúng và dành thêm thời gian. Tôi nghĩ là bây giờ thì ông có thể hiểu tầm quan trọng của việc không để các nhân chứng bàn luận về những gì họ đã nhìn thấy. Nếu chuyện về họ được tiết lộ ra thì đó sẽ là một thảm hoạ đối với thế giới.
- Ngài không nghĩ rằng tốt hơn là chuẩn bị cho dân chúng và…
- Ông sĩ quan, vào năm 1938, một bác sĩ trẻ tên là Orson Welles làm một vở kịch truyền thanh với cái tên "Chiến tranh giữa các hành tinh" về chuyện những sinh vật lạ xâm lăng trái đất nầy. Chỉ trong vòng ít phút, đã có một sự hoảng sợ trong các thành phố trên khắp nước Mỹ. Một bộ phận dân chúng quá khích đã tìm cách chạy trốn khỏi những kẻ xâm lăng tưởng tượng kia. Các đường liên lạc điện thoại bị nhiễu loạn, các xa lộ bị tắc nghẽn. Nhiều người bị chết. Tất cả trở nên rối loạn. Không, chúng ta phải tìm ra cách tiếp đón các sinh vật lạ kia trước khi công bố mọi chuyện. Chúng tôi muốn ông tìm ra những nhân chứng kia là để bảo vệ cho chính họ và để chúng ta có thể kiểm soát được tình hình.
- Vâng. Tôi… tôi hiểu. - Robert thấy mình đang toát mồ hôi.
- Tốt. Tôi cho rằng ông đã nói chuyện với một trong số các nhân chứng?
- Tôi đã tìm được hai trong số họ.
- Tên?
- Hans Beckerman. - Ông ta là người lái xe của chiếc xe bus du lịch theo tuyến đó. Ông ta sống ở Kapel…
- Và người thứ hai?
- Fritz Mandel. Anh ta có một cái gara ở Bern. Anh ta chính là người thợ máy đã kéo chiếc xe của nhân chứng thứ ba về xưởng.
- Tên của nhân chứng đó?
- Tôi chưa có. Tôi đang tìm kiếm. Ngài có muốn tôi nói chuyện với họ về việc cần thiết phải im lặng về cái vật thể bay lạ nầy không?
- Không. Nhiệm vụ của ông đơn thuần là tìm ra các nhân chứng. Sau đó, chúng ta sẽ để các chính phủ của họ lo chuyện với từng người. Ông đã biết có bao nhiêu nhân chứng chưa?
- Rồi. Bẩy hành khách cùng người lái xe, người thợ máy và một người đi ô tô ngang qua.
Ông phải tìm ra tất cả bọn họ. Từng người trong số mười nhân chứng đã mục kích vụ tại nạn. Rõ chưa?
- Rõ, thưa ngài.
Robert gác ống nghe, đầu óc rối bời. Những vật thể bay lạ là chuyện có thật. Những sinh vật xa lạ kia là những kẻ thù. Tướng Hilliard đã trao cho anh nhiệm vụ nầy nhưng đã không nói với anh tất cả. Họ còn giấu anh điều gì nữa không nhỉ?
***
Hãng cho thuê xe hơi Avis đặt ở số 44 phố Lausanne ở trung tâm Geneva. Robert xồng xộc đi vào và tiến tới trước một phụ nữ đang ngồi sau bàn.
- Tôi có thể giúp ông chứ?
Robert ném mẩu giấy với số biển kiểm soát của chiếc xe Renault được viết trên đó.
- Tuần trước, hãng cô đã cho thuê chiếc xe nầy. - Tôi muốn biết tên cái người đã thuê nó. - Giọng anh đầy tức giận.
Cô nhân viên rúm người lại.
- Tôi xin lỗi, chúng tôi không được phép đưa ra các thông tin đó.
- Ồ, thế thì thật là quá tại hại, - Robert cáu kỉnh - bởi vì trong trường hợp đó, tôi sẽ phải kiện hãng của cô để đòi một khoản tiền lớn.
- Tôi không hiểu. Có chuyện gì vậy?
- Tôi sẽ nói cho cô nghe có chuyện gì, cô gái. Chủ nhật tuần trước chiếc xe nầy đã đâm vào tôi trên xa lộ và làm xe tôi hỏng nặng. Tôi đã ghi lại được số xe của hắn ta, nhưng hắn thì lái xe chạy mất trước khi tôi có thể giữ được hắn.
- Tôi hiểu rồi. - Cô nhân viên nhìn Robert trong giây lát. - Xin lỗi một chút. - Cô biến mất vào trong một căn phòng phía sau. Mấy phút sau cô quay lại, mang theo một hồ sơ. - Theo hồ sơ của chúng tôi, có một trục trặc với động cơ của chiếc xe nầy, nhưng không có báo cáo về bất kỳ một tai nạn nào.
- Ồ thì bây giờ tôi đang báo cáo đây thôi. Và tôi cho rằng hãng của cô phải chịu trách nhiệm về chuyện nầy. Các cô sẽ phải trả tiền sửa xe cho tôi. Đó là một chiếc xe Porsche mới tinh, và nó sẽ làm cho các cô mất một đống tiền…
- Tôi rất lấy làm tiếc, thưa ông, nhưng do không được báo về vụ tai nạn nên chúng tôi không thể chịu bất kỳ trách nhiệm gì.
- Nầy, - Robert nói bằng một giọng dịu hơn. - Tôi muốn thật công bằng. Tôi không muốn hãng của cô phải chịu trách nhiệm. Tất cả những gì tôi muốn là cái thằng cha kia phải trả tiền cho những hư hỏng mà hắn đã gây ra cho cái xe của tôi. Đó là cái trò gây chuyện rồi bỏ chạy. Thậm chí tôi có thể báo cảnh sát về chuyện nầy. Nếu cô cho tôi biết tên và địa chỉ hắn ta, tôi sẽ nói chuyện trực tiếp với hắn và chúng tôi có thể giải quyết với nhau mà không mắc mớ gì đến hãng nầy. Như thế đã công bằng chưa nào?
Cô nhân viên ngẫm nghĩ.
- Được. Chúng tôi hẳn là muốn vậy hơn. - Cô nhìn xuống cặp hồ sơ trong tay và nói. - Tên của người thuê xe là Leslie Mothershed.
- Còn địa chỉ?
- 213 A đường Grove, Whitechapel, London, khu 3 Đông. - Cô ngước lên. - Ông chắc chắn là hãng chúng tôi không dính vào chuyện kiện tụng chứ hả?
- Tôi hứa với cô như vậy, - Robert cam đoan. - Đây là chuyện riêng giữa Leslie Mothershed và tôi.
Robert Bellamy có mặt trên chuyến bay đầu tiên đi London.
***
Ông ta ngồi một mình trong bóng tối, tập trung và thận trọng rà lại từng giai đoạn của bản kế hoạch đề tin chắc rằng không có một kẽ hở nào, không thể có trục trặc gì. Những ý nghĩ của ông ta bị gián đoạn bởi tiếng chuông điện thoại dịu dàng.
- Janus đây.
- Janus. Tướng Hilliard.
- Nói đi.
- Sĩ quan Bellamy đã phát hiện hai nhân chứng đầu tiên.
- Rất tốt. Lo việc đó ngay đi.
- Thưa ngài, vâng.
- Hiện giờ ông sĩ quan đang ở đâu?
- Trên đường đi London. Ông ta sẽ sớm xác định được người thứ ba.
- Tôi sẽ báo cho Uỷ ban về những kết quả của ông ta. Hãy tiếp tục báo cho tôi biết tình hình. Tình trạng của chiến dịch nầy vẫn là khẩn cấp.
- Thưa ngài, tôi hiểu. Tôi đề nghị…
Đường liên lạc bị cắt.
Điện khẩn.
Tối mật.
NSA gửi Giám đốc Bundesanwaltschaft.
Không ghi chép lại.
Bản số 1 duy nhất.
Trích yếu: Chiến dịch Ngày Tận Thế.
1. Hans Beckerman - Kapel.
2. Fritz Manael - Bern.


Vào lúc nửa đêm, trong một trang trại nhỏ cách Uctendort mười lăm dặm, gia đình Lagenfeld bị khuấy động bởi một chuỗi các hiện tượng lạ. Đứa con lớn thức giấc bởi một luồng ánh sáng màu vàng nhạt chiếu qua cửa sổ phòng ngủ. Khi cậu ta trở dậy để xem chuyện gì thì luồng ánh sáng biến mất.
Ở ngoài sân, Tozzi, con chó săn giống Đức, bắt đầu sủa vang giận dữ, đánh thức ông già Lagenfeld.
Ông chủ trại miễn cưỡng rời khỏi giường để nạt con vật thôi sủa, và khi vừa bước ra ngoài thì nghe tiếng bầy cừu hoảng hot trong chuồng, tìm cách thoát ra.
Khi đi qua cái máng ăn vốn đầy nước do trời mới mưa, ông thấy rằng cái máng khô khốc.
Và đúng lúc đó, tất cả đèn trong nhà vụt tắt. Khi ông chủ trại trở vào nhà và nhấc điện thoại để gọi bảo sở điện lực thì thấy đường dây bị cắt rồi.
Nếu như điện còn sáng thêm một vài giây thì ông chủ trại có thể đã trông thấy một phụ nữ đẹp một cách kỳ lạ từ khu sân trại của ông đi ra phía ngoài đồng.


Cục Tình báo – Geneva
13 giờ 00.
Vị bộ trưởng ngồi trong cán phòng nằm lọt ở trung tâm của toà nhà trụ sở Cục Tình báo Thuỵ Sĩ, nhìn viên phó giám đốc đang đọc nốt bức điện.
Rồi ông ta thu nó về, bỏ vào trong cái cặp hồ sơ có đánh dấu Tuyệt mật, cất cái cặp vào trong ngàn kéo bàn và khoá lại.
- Hans Beckerman và Fritz Mandel.
- Phải.
Không có vấn đề gì; thưa ngài bộ trưởng. Chuyện nầy sẽ được lo liệu chu tất.
- Tốt.
- Sao ạ?
- Thủ tiêu. Ngay lập tức.
***
Sáng ngày hôm sau, trên đường đi làm, Hans Beckerman lại bị cái bụng của ông ta hành hạ. Lẽ ra mình phải bắt cái thằng cha phóng viên kia xì tiền cho cái vật mà mình đã nhặt được. Tất cả những tờ tạp chí nầy đều lắm tiền cả. Có thể mình đã kiếm được vài trăm đồng mác. Và như vậy mình đã có thể đến một bác sĩ tử tế để chữa cái bụng của mình.
Đang lái xe chạy ngang hồ Turler thì phía trước, bên lề xa lộ, ông ta thấy một người phụ nữ vẫy xin đi nhờ. Beckerman cho xe chạy chậm lại để có thể nhìn người phụ nữ rõ hơn. Cô ta trẻ trung và trông thật hấp dẫn. Ông ta dừng xe lại bên lề đường. Cô gái tiến lại bên xe.
- Xin chào, - Beckerman nói - Tôi có thể giúp cô chứ?
Ở gần, trông cô ta còn xinh đẹp hơn.
- Cảm ơn. - Cô ta có giọng Thuỵ Sĩ. - Em cãi cọ với người bạn trai của em, và anh ta đã ném em xuống đây, giữa nơi đồng không mông quạnh nầy.
- Chà, chà. Thật là tồi tệ.
- Ông không phiền lòng cho em đi nhờ xe tới Zurich chứ?
- Có gì đâu. Vào đi, vào đi!
Cô gái mở cửa và vào ngồi cạnh Hans.
- Ông thật tốt bụng, - Cô ta nói. - Tên em là Karen.
- Hans. - Ông ta cho xe chuyển bánh.
- Em không biết em sẽ xoay sở thế nào nếu không có ông, Hans ạ.
- Ồ tôi chắc là sẽ không ai không dừng xe một cô gái xinh đẹp như cô.


Ngày thứ tư - London.
Thứ năm, ngày 18 tháng Mười.
Leslie Mothershed có thần tượng là Robin Leach. Là một người ham mê chương trình "Phong cách của những người giàu có và nổi tiếng", Mothershed chăm chú theo dõi cách đi đứng, ăn mặc và nói năng của những vị khách của Robin Leach, bởi vì anh ta tin rằng một ngày nào đó, mình cũng sẽ xuất hiện trên chương trình nầy. Từ khi còn là một cậu bé, anh ta đã cảm thấy rằng số mệnh của mình là phải trở thành một nhân vật nào đó, giàu và nổi tiếng.
- Con là người rất đặc biệt đấy, - mẹ anh ta vẫn thường nói. - Con của mẹ rồi đây sẽ nổi tiếng khắp thế giới.
Cậu bé con thường đi ngủ với lời nói đó vang vang trong tai cho đến khi cậu ta thực sự tin là như thế.
Khi lớn lên, Mothelshed biết rằng mình có những khó khăn: Cậu ta không hề biết rõ mình sẽ trở nên nổi tiếng và giàu có bằng cách nào. Một dạo, Mothershed ám ảnh với ý nghĩ sẽ trở thành một ngôi sao màn bạc, thế nhưng cậu ta lại có tính nhút nhát khác thường. Cũng đã thoáng thèm muốn trở thành một ngôi sao bóng đá, nhưng cậu ta lại không phải là một vận động viên. Rồi lại nghĩ tới việc trở thành một khoa học gia nổi tiếng, hay một luật gia vĩ đại, có trong tay những ngân khoản khổng lồ. Thật không may, học lực của cậu ta vào loại xoàng và rồi cậu ta rời ghế nhà trường mà cũng không gần hơn được chút nào với ước vọng. Đơn giản là cuộc sống nầy không công bằng. Về mặt thể lực, trông cậu thật thiếu cảm tình, gầy, với nước da xanh nhợt, ốm yếu và cậu thấp choằn, chỉ có một mét sáu lẻ một chút. Mothershed luôn nhấn mạnh tới cái chỗ lẻ ấy. Cậu tự an ủi mình với một thực tế là những người nổi tiếng đều có khổ người thấp: Napoléon, Dudley Moore, Dustin Hoffman, Peter Falk…
Nghề duy nhất thực sự làm cho Leslie Mothershed thấy thích thú là chụp ảnh. Song nó thật là đơn giản. Ai cũng có thể làm được. Người ta chỉ cần ấn cái nút.
Mẹ cậu đã mua cho cậu một cái máy ảnh nhân sinh nhật lần thứ sáu của cậu và đã không tiếc lời ngợi ca những tấm ảnh mà cậu chụp được. Khi lên mười, Mothershed đã tin rằng cậu là một nhà nhiếp ảnh sáng giá. Cậu tự nhủ rằng mình hoàn toàn có tài như Ansel Adams, Richard Avedon, hay Margaret Bourke White. Với một khoản cho vay của bà mẹ, Leshe Mothershed đã mở một hiệu ánh ngay trong cái căn hộ ở Whitechpel của mình.
- Hãy bắt đầu bằng việc nhỏ, - bà mẹ nói, - nhưng nghĩ lớn. Và đó chính là điều Leslie đã làm. Anh ta bắt đầu rất nhỏ và nghĩ thì rất lớn, nhưng thật không may là anh ta không hề có tài năng nhiếp ảnh. Anh ta chụp những cuộc diễu hành, những con vật, những bông hoa và tin tưởng gửi chúng cho tất cả các tờ báo và tạp chí, và chúng luôn luôn bị gửi trả. Mothershed tự an ủi mình rằng tất cả những thiên tài đều đã bị phản bác trước khi tài năng của họ được công nhận. Anh ta tự cho mình là một kẻ tử vì đạo trước chủ nghĩa vật chất tầm thường.



***Xem trang:
[1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15][16][17][18][19][20]

TOP WAP WORLDWIDE


mobiV trang ch

© GIAITRI102.TK
Thanks to XTGEM