pacman, rainbows, and roller s
Không bấm vùng phía trên kẻo mất tiền nhé!

Đại uý Bezu Fachequả có phong thái của một con bò đang cơn giận với bờ vai rộng ngửa về phía sau và cái cằm ấn chặt vào ngực. Mái tóc đen chuốt dầu bóng càng làm nổi bật đường ngôi thẳng như mũi tên chia đôi cái trán dô ra phía trước như mũi chiến hạm. Khi ông dấn bước, đôi mắt đen dường như thiêu đốt mặt đất phía trước, tỏa ánh rực lửa, báo trước tmh cách nghiêm khắc không khoan nhượng nổi tiếng của ông trong mọi vấn đề.
Langdon theo viên đại uý xuống chiếc cầu thang cẩm thạch nổi tiếng đi vào lòng nhà hõm sâu bên dưới Kim tự tháp bằng kính. Trên đường đi xuống, họ qua giữa hai vệ binh của Cục Cảnh sát tư pháp lăm lăm súng máy. Thông điệp rất rõ ràng: Không ai có thể ra vào tối nay mà không có sự cho phép của đại uý Fache.
Xuống dưới sâu hơn mặt đất, Langdon phải cố dẹp một cơn run đang dâng lên. Sự hiện diện của Fache không có chút gì là nồng nhiệt, và vào giờ phút này, bản thân bảo tàng Louvre cũng nhuốm một màu gần như tang tóc. Cầu thang, tựa lối đi trong một rạp chiếu bóng tối om, chỉ có đèn gắn ở mỗi bậc chiếu sáng lờ mờ. Langdon có thể nghe thấy tiếng chân của chính mình dội lại từ tấm kính trên đầu. Ngước lên, ông có thể nhìn thấy những làn sương tử những vòi phun nước tan dần phía bên ngoài mái nhà trong suốt.
"Ông thấy có được không?" Fache hỏi, hất cái cằm rộng về phía trên.
Langdon thờ dài, quá mệt mỏi để chơi trò đánh đố: "Vâng, Kim tự tháp của các ông thật lộng lẫy.
Fache lầm bầm: "Một cái sẹo trên bộ mặt Paris".
Lạ đấy. Langdon có cảm nhận vị chủ nhân này là người khó có thể làm vừa lòng. Ông tự hỏi liệu Fache có biết rằng Kim tự tháp này, theo yêu cầu rõ ràng của tổng thống Mitterrand, đã được xây dựng bằng đúng 666 tấm kính - một yêu cầu kỳ quái luôn là chủ đề tranh luận nóng bỏng trong các chuyên gia, họ cho rằng con số 666 là số của quỷ Satan.
Langdon quyết định không nói điều ấy ra.
Khi họ đi xa hơn vào phòng chờ dưới đất, khoảng không rộng mở từ từ hìện ra từ trong bóng tối. Nằm dưới mặt đất 19 mét, đại sảnh rộng khoảng 7.600 mét vuông mới xây dựng của bảo tàng Louvre trải ra như một cái hang bất tận. Được xây bằng đá cẩm thạch màu vàng nâu ấm áp để tương hợp với đá màu mật ong của mặt tiền bên trên, đại sảnh dưởi mặt đất thường rung lên bởi ánh sáng mặt trời và khách du lịch. Tuy nhiên, tối nay, sảnh trống rỗng và tối tăm, khíến cho toàn bộ đắm trong một không khí lạnh lẽo tựa như hầm mộ.
"Còn đội báo vệ thường trực của bảo tàng thì sao?", Langdon hỏi.
"En " (1). Fache đáp, cứ như thể Langdon đang nghi ngờ tính chính trực của đội ông ta. "Hiển nhiên là đã có kẻ đột nhập. Tất cả những người canh đêm ở Louvre bên cánh Sully đều đang bị thẩm vấn. Việc đảm bảo an ninh buối tối nay cho bảo tàng được chuyển giao cho các nhân viên của tôi".
Langdon gật đầu, đi nhanh để theo kịp Fache.
"Ông biết Jacques Saunière đến mức nào?" Viên đại úy hỏi.
"Thực ra là chẳng mấy tí. Chúng tôi chưa từng gặp nhau".
Fache có vẻ ngạc nhiên: "Tối nay mới là buổi hẹn gặp đầu tiên ư?".
"Vâng. Chúng tôi dự định gặp nhau tại buổi chiêu đãi của trường Đại học Mỹ sau bài giảng của tôi nhưng không thấy ông ấy tới".
Fache ghi nguệch ngoạc vài dòng vào một cuốn sổ nhỏ. Khi họ đi tiếp, Langdon thoáng thấy khối Kim tự tháp ít nổi tiếng hơn của bảo tàng Louvre - Kim tự tháp đảo ngược - một cửa mái khổng lồ lộn ngược rủ xuống từ trên trần tựa một thạch nhũ ở khu vực kế đó. Fache dẫn Langdon đi lên một vài bậc thang đến cửa một hành lang có khung vòm, phía trên có biển đề dòng chữ: DENON. Cánh Denon là phần nổi tiếng nhất trong ba phần chính của Louvre.
"Ai là người yêu cầu có cuộc gặp mặt tối nay?" Fache đột ngột hỏi. "Ông hay ông ấy?".
Câu hỏi có vẻ kỳ lạ. "Ông Saunière", Langdon đáp khi họ vào đường hầm. "Thư ký của ông ấy đã liên lạc với tôi vài tuần trước bằng thư điện tử. Cô ấy nói rằng ông phụ trách bảo tàng biết tôi sẽ thuyết giảng ở Paris tháng này và muốn bàn chuyện gì đó với tôi trong khi tôi ở đây".
"Bàn chuyện gì?".
"Tôi không biết. Chắc là về nghệ thuật. Chúng tôi có cùng mối quan tâm".
Fache có vẻ không tin: "Ông không hề biết cuộc gặp của các ông nhằm việc gì?".
Langdon không biết. Lúc đầu ông cũng tò mò nhưng thấy không tiện hỏi cụ thể. Tôn ông Jacques Saunière nổi tiếng là thích sự riêng tư và rất ít khi cho ai gặp, chỉ riêng việc có cơ hội gặp ông cũng đủ khiến Langdon phải cảm ơn rồi.
"Ông Langdon, chí ít ông có thể đoán xem nạn nhân bị giết của chúng ta có thể muốn bàn luận gì với ông vào cái đêm ông ấy bị giết chứ? Điều đó có thể sẽ rất có ích".
Sự thẳng thừng của câu hỏi đó làm cho Langdon cảm thấy không thoải mái.
"Tôi thực sự không thể đoán được. Tôi đã không hỏi. Tôi cảm thấy vinh dự được tiếp xúc với ông ấy. Tôi là người ngưỡng mộ công trình của ông Saunière. Tôi thường dùng các bài viết của ông ấy trên lớp".
Fache ghi điều đó vào sổ.
Hai người đã đi được nửa đường hầm dẫn vào cánh Denon và Langdon có thể nhìn lhấy những cầu thang cuốn kép đôi ở phía xa, cả hai bên lên, xuống đều đứng im.
"Vậy là ông có cùng những mối quan tâm với ông ấy?" Fache hỏi.
"Vâng, trên thực tế, năm ngoái tôi đã dành nhiều thời gian soạn thảo một cuốn sách bàn về lĩnh vực giám định chủ yếu của ông Saunière. Tôi mong sao lượm lặt dược chút tri thức của ông ấy".
Fache ngước mắt: "Gì cơ?".
Rõ ràng ông ta không hiểu câu thành ngữ?
"Tôi mong sao học hỏi những suy nghĩ của ông ấy về đề tài này".
"Tôi hiểu. Và đề tài đó là gì?".
Langdon do dự, không biết diễn tả như thế nào cho chính xác: "Về cơ bản, bản thảo viết về khoa nghiên cứu các hình tượng thờ nữ thần - khái niệm về tính thánh nữ và nghệ thuật cùng những biểu tượng gắn kết với nó".
Fache giơ bàn tay mập ú vuốt tóc: "Và Saunière rành về đề tài này?".
"Không ai hơn ông ấy".
"Tôi hiểu".
Langdon cảm thấy Fache chẳng hiểu gì hết. Jacques Saunière đuợc xem là nhà mô tả các hình tượng về nữ thần hàng đầu trên thế giới. Saumère không chỉ có niềm đam mê cá nhân đối với những thánh tích có liên quan đến sự phồn thực, các nghi lễ cúng tế nữ thần, (2)và lính nữ linh thiêng, mà trong suốt hai mươi năm phụ trách bảo tàng! Saunière đã giúp Louvre tập hợp được bộ sưu tập nghệ thuật nữ thần lớn nhất thế giới - những cái rìu của các nữ tu ở những điện thờ cổ xưa nhất của Hy Lạp ở Delphi, những cây quyền trượng bằng vàng, hàng trăm thập giá hình khóa giống như những thiên thần nhỏ của vùngTjet, những chiếc trống lắc được sử dụng ở Ai Cập cổ đại để xua đuổi tà ma, và một bộ tượng kỳ thú miêu tả cảnh Horus được nữ thần Isis cho bú.
"Có lẽ Jacques Saunière nghe nói về bản thảo của ông?".
Fache gợi ý. "Và ông ấy sắp đặt cuộc gặp gở để đề nghị giúp đỡ cho cuốn sách của ông".
Langdon lắc đầu: "Thực sự, chưa ai biết về bản thảo này. Nó vẫn ở dạng nháp, và tôi không đưa nó cho bất kỳ ai trừ người biên tập của tôi".
Fache im lặng.
Langdon không nói thêm lý do khiến ông chưa cho ai xem tập bản thảo. Bản nháp dày ba trăm trang - tạm đặt tên là Những biểu tượng của tính nữ thiêng liêng bị thất truyền - đưa ra một số diễn giải rất khác thường về hệ hình tượng tôn giáo đã chế định, những diễn giải chắc chắn sẽ gây tranh cãi.
Khi Langdon đi gần đến chiếc cầu thang cuốn vẫn đứng im, ông dừng lại, nhận thấy Fache không còn ở bên cạnh mình.
Quay lại, Langdon nhìn thấy Fache đang đứng cách đó vài mét về phía sau ở chỗ thang máy dành cho người phục vụ.
"Ta sẽ đi thang máy", Fache nói khi cửa thang máy mở ra.
"Tôi chắc ông biết Hành Lang Lớn khá xa nếu đi bộ".
Tuy Langdon biết đi thang máy lên hai tầng dài để đến Cánh Denon sẽ nhanh hơn, ông vẫn đứng im.
"Có chuyện gì không ổn?" Eache giữ cửa, có vẻ sốt ruột.
Langdon thở hắt ra, quay lại nhìn đầy thèm muốn về phía cầu thang cuốn ngoài trời. Chẳng có chuyện gì không ổn cả, ông tự dối mình, lụi hụi trở lại thang máy. Hồi bé, Langdon đã ngã xuống một cái giếng bỏ đi và suýt chết vì ngâm nước trong cái khoảng hẹp đó nhiều giờ trước khi có người đến cứu.
Kể từ đó, ông bị ám ảnh bởi chứng sợ những khoảng khép kín - thang máy, đường điện ngầm, sân chơi bóng quần. Thang máy là một cái máy tuyệt đối an toàn, Langdon tự nhủ nhưng không bao giờ tin điều đó cả. Nó là một hộp kim loại nhỏ xíu treo trong một cái ống thông khép kín. Nín thở, ông bước vào buồng thang, cảm thấy cái giật thon thót quen thuộc mỗi khi cửa thang máy khép lại.
Hai tầng. Mười giây.
"Ông và ông Saunière", Fache nói khi thang máy bắt đầu chuyển, "các ông chưa hề nói gì với nhau? Chưa hề thư từ? Chưa hề gửi cho nhau bất cứ thứ gì qua bưu điện?".
Lại một câu hỏi kỳ lạ. Langdon lắc đầu: "Không. Chưa bao giờ".
Fache nghếch đầu, như thể ghi thẳng vào dầu sự việc đó.
Không nói gì, ông ta nhìn trân trân vào cánh cửa bằng crôm.
Khi họ lên cao, Langdon cố tập trung vào những cái khác hơn là bốn bức vách xung quanh. Qua sự phản chiếu của cánh cửa thang máy sáng bóng, ông thấy cái kẹp cavát của viên đại uý một cây thánh giá bằng bạc có gắn mười ba viên mã não có vân đen. Langdon thấy hơi là lạ. Biểu tượng này gọi là crux gemmata - một cây thánh giá gắn mười ba viên ngọc - một biểu tượng Thiên Chúa giáo ám chỉ Chúa và mười hai vị thánh tông đồ của Ngài. Không hiểu sao, Langdon không ngờ người chỉ huy của Cảnh sát Pháp lại phô bày tôn giáo của ông ta quá lộ liễu như vậy. Hơn nữa đây là Pháp, ở đây Thiên Chúa giáo không phải là một tôn giáo được xem như quyền tự nhiên.
"Đó là một crux gemmata", Fache đột ngột nói.
Giật mình, Langdon ngước lên thấy Fache dán mắt vào mình trong ánh phản chiếu.
Thang máy dừng sững, cửa mở ra.
Langdon bước vội ra, đi nhanh vào hành lang, thèm khát khoảng không rộng thoáng tạo nên bởi những trần cao nổi tiếng của những phòng tranh trong Louvre. Tuy nhiên, thế giới ông bước vào chẩng có gì giống với những gì ông mong đợi.
Ngạc nhiên, Langdon dừng sững lại.
Fache liếc sang: "Tôi rút ra kết luận là ông chưa bao giờ thấy Louvre sau giờ công sở, ông Langdon?".
Tôi đoán là thế. Langdon nghĩ, cố định thần lại.
Vốn được chiếu sáng hoàn hảo nhưng tối nay, các phòng trưag bầy của Louvre đột nhiên tối om. Thay cho ánh sáng trắng toả tuôn xuống từ bên trên, là một vầng đỏ lừ dường như tỏa ra từ ván chân tường - những vệt sáng đỏ lập lòe đổ tràn ra trên sàn lát đá.
Khi nhìn dọc theo hành lang tối tăm, Langdon nhận ra đáng lẽ ông nên hình dung trước cảnh tượng này. Hầu như tất cả các phòng trưng bầy chính đều để đèn đỏ vào buổi tối - những ngọn đèn được đặt ở tầm thấp theo chủ định, không tỏa sáng rộng đủ để cho các nhân viên đi lại trong các hành lang mà vẫn giữ cho các bức họa trong bóng tối tương đối để hãm chậm tác động phai màu do phơi sáng quá nhiều. Tối nay, bảo tàng có vẻ gần như ngột ngạt. Bóng tối lan dài xâm lấn mọi nơi, và những trần vòm thường khi cao vút bỗng có vẻ như những khoảng trống thấp tối đen.
"Đường này" - Fache nói, rẽ phắt sang phải và đi qua một dãy dài các phòng trưng bày nối liền với nhau.
Langdon đi theo, mắt ông cũng dần dần quen với bóng tối. Xung quanh, những bức tranh sơn dầu khổ to bắt đầu hiện ra trước mắt ông như tiến trình rửa ảnh trong một buồng tối khổng lồ mắt các nhân vật trong tranh dõi theo ông khi ông đi qua các phòng. Ông có thể ngửi thấy mùi vị quen thuộc của không khí bảo tàng - mùi tinh dầu giải iôn hăng hắc thoang thoảng chút carbon - sản phẩm của máy hút ẩm công nghiệp, với bộ lọc chạy bằng than, các máy này chạy suốt ngày để trung hòa khí CO2 gây ăn mòn, tỏa ra theo hơi thở của khách tham quan.
Lắp đặt cao trên tường, các camera an ninh lộ liễu gửi thông điệp rõ ràng đến khách tham quan: Chúng tôi nhìn thấy bạn, đừng chạm vào bất kỳ vật gì.
"Có cái nào là thật không?". Langdon hỏi chỉ về phía các camera.
Fache lắc đầu: "Tất nhiên là không".
Langdon không ngạc nhiên. Sự giám sát bằng video trong các bảo tàng cỡ này chi phí cao và không có tác dụng gì. Để giám sát các phòng trưng bày rộng hàng ngàn mét vuông, Louvre ắt phải cần đến hàng trăm kỹ thuật viên, chỉ đơn thuần để theo dõi liên tục các hiện vật. Hầu hết các bảo tàng lớn đều dùng biện pháp "an ninh ngăn chặn". Hãy quên đi việc giữ các tên trộm ở ngoài, hãy giữ chúng ở bên trong. Thiết bị ngăn chặn hoạt động sau giờ công sở, nếu một kẻ xâm nhập tháo đi một tác phẩm nghệ thuật, các lối ra sẽ được đóng kín quanh phòng trưng bày đó, và tên trộm sẽ thấy mình bị cầm tù ngay cả trước khi cảnh sát đến.
Nhiều giọng nói vang vọng trong hành lang cẩm thạch phía trước. Tiếng ồn dường như đến từ một khoang hõm rộng đằng trước mé tay phải. Một ngọn đèn sáng toả xuống cả hành lang.
"Văn phòng của ông phụ trách bảo tàng", viên đại uý nói.
Khi họ đến gần khoang hõm hơn, Langdon dõi mắt qua đoạn hành lang ngắn nhòm vào phòng làm việc sang trọng của Saunière - gỗ ấm, những bức họa của các bậc thày thời xưa, và một bàn giấy kiểu cổ đồ sộ, trên đó có mô hình một hiệp sĩ mặc giáp trụ đầy đủ cao khoảng 0,60 m. Một nhóm cảnh sát bận rộn trong căn phòng, nói chuyện điện thoại và ghi chép. Một trong số họ ngồi ở bàn của Saunière, đang sử dụng máy tính xách tay.
Rõ ràng tối nay, phòng riêng của ông phụ trách bảo tàng đã trở thành sở chỉ huy tạm thời của DCPJ.
"Messieurs", Fache gọi và mọi người quay lại, "Ne nous dérangez pas sous aucun prétexte. Entendu?"(3) .
Mọi người trong văn phòng gật đầu hiểu ý.
Langdon đã từng treo khá nhiều biển mang dòng chữ NE PAS DÉRANDER trên các cửa phòng khách sạn đủ để hiểu nội dung mệnh lệnh của viên đại úy. Fache và Langdon sẽ không bị quấy rầy trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Để nhóm nhỏ nhân viên lại phía sau, Fache dẫn Langdon đi xa hơn nữa vào hành lang tối. Lù lù trước mặt, cách khoảng ba mươi mét là cổng vào phần nổi tiếng nhất của Louvre - Hành Lang Lớn - một hành lang dường như vô tận, nơi để những kiệt tác quý nhất của Ý tại bảo tàng Louvre. Langdon đã nhận ra đây là nơi thi thể Saunière nằm, sàn gỗ nổi tiếng của Hành Lang Lớn không thể lẫn đi đâu trong bức ảnh chụp lấy ngay.
Khi họ đến gần, Langdon nhìn thấy lối vào bị chắn bởi một hàng rào thép khổng lồ giống như ở các lâu đài thời Trung cổ nhằm ngăn chặn kẻ thù cướp bóc.
"An ninh ngăn chặn", Fache nói, khi họ tới sát những thanh thép.
Ngay cả trong bóng tối, hàng rào chắn vẫn có vẻ như có thể chặn được cả xe tăng. Từ bên ngoài, Langdon nhìn qua song sắt vào các hốc lờ mờ sáng của Hành Lang Lớn.
"Mời ông qua trước, ông Langdon", Fache nói.
Langdon quay lại. Qua trước, qua chỗ nào chứ?
Fache ra hiệu về phía sàn nhà, phần dưới của rào chắn.
Langdon nhìn xuống. Trong bóng tối, ông không nhận thấy.
Hàng rào chắn đã được nâng cao lên khoảng sáu mươi phân, tạo ra một khoảng trống xệch xẹo bên dưới.
"Khu vực này ngoài tầm kiểm soát an ninh của Louvre". Fache nói. "Đội của tôi từ Cục cảnh sát khoa học và kỹ thuật cảnh sát vừa hoàn thành cuộc điều tra của họ". Ông ta chỉ vào khe hở: "Xin hãy luồn mé dưới".
Langdon nhìn vào khoảng hẹp có thể trướn qua được dưới chân mình và rồi lại nhìn hàng rào sắt kếch xù bên trên. Ông ta đang đùa đúng không? Hàng rào chắn trông giống như một cái máy chém chờ đợi để nghiền nát những kẻ đột nhập.
Fache lầm bầm điều gì đó bằng tiếng Pháp và xem đồng hồ.
Sau đó, ông ta quỳ xuống và lách cái thân hình đồ sộ của mình dưới hàng rào. Sang tới bên kia, ông ta đứng dậy và nhìn Langdon qua song sắt.
Langdon thở dài. Chống tay lên sàn gỗ bóng lộn, ông nằm sấp và trườn về phía trước. Trong khi lách qua, cổ áo tuýt hiệu Harris chạm vào đáy của hàng rào, và ông va gáy vào đó.
Lịch sự nhỉ, Robert, ông nghĩ, dò dẫm và rồi cuối cùng cũng kéo được người qua. Đứng dậy, Langdon bắt đầu tin chắc đây sẽ là một đêm rất dài.
Chú thích:
(1) Tiếng Pháp trong nguyên bản: cách ly.
(2) Thuyết thần học phù thuỷ, theo đó, nữ giới được trao quyền cai quản đất trời.
(3) Tiếng Pháp trong nguyên bản: "Các ông, xin đừng quấy rầy chúng tôi vì bắt cứ lý do gì. Rõ chưa?"


Quảng trường Murray Hill - Tổng Hành Dinh Quốc Gia mới của Opus Dei, trung tâm hội nghị - tọa lạc ở 243 Đại lộ Lexington, New York. Với giá hơn bốn mươi bảy triệu đôla, nó là một tòa tháp rộng gần 15.000 mét vuông được ốp gạch đỏ và đá vôi vùng Indiana. Do May & Pinska thiết kế, tòa nhà bao gồm trên một trăm phòng ngủ, sáu phòng ăn, thư viện, phòng ở phòng họp, và văn phòng. Tầng hai, tầng tám và tầng mười sáu là các nhà nguyện được trang trí đồ gỗ và đá cẩm thạch.
Tầng mười bảy hoàn toàn là nhà ở. Đàn ông vào tòa nhà qua cổng chính ở phía Đại lộ Lexington. Phụ nữ vào qua phố bên cạnh và "cách biệt hẳn, không nghe thấy và không nhìn thấy" đám đàn ông vào bất kỳ lúc nào trong tòa nhà.
Từ chiều nay, trong căn phòng tôn nghiêm ở tầng trên cùng của mình, Giám mục Manuel Aringarosa đã đóng một túi đồ du lịch nhỏ và mặc chiếc áo thày tu truyễn thống màu đen. Bình thường, ông quấn dây lưng màu tía quanh hông, nhưng tối nay ông sẽ ra nơi công cộng, và ông không muốn gây ra sự chú ý tới chức vụ cao của mình. Chỉ những người với con mắt tinh tường mới có thể để ý đến chiếc nhẫn Giám mục bằng vàng 14 kara với viên thạch anh tím cùng những viên kim cương to, và miếng vải đính mũ tế. Quàng túi du lịch qua vai, ông thầm đọc một câu kinh và rời phòng đi xuống sảnh trước - nơi người lái xe đang chờ để đưa ông ra sân bay.
Giờ đây ngồi trên một máy bay thương mại đi Roma, Aringarosa nhìn ra ngoài cửa sổ xuống Đại Tây Dương sẫm màu.
Mặt trời vừa lặn, nhưng Aringarosa biết sao chiếu mệnh của mình đang lên. Tối nay trận chiến sẽ thắng lợi, ông nghĩ, kinh ngạc vì chỉ vài tháng trước, ông vẫn còn cảm thấy chẳng có quyền uy gì chống lại những bàn tay đe dọa phá hủy đế chế của ông.
Là chủ tịch của Opus Dei, Giám mục Aringarosa đã dành mười năm qua của cuộc đời để truyền bá thông điệp "Tác phẩm của Chúa", nghĩa đen của từ Opus Dei. Giáo đoàn này được thầy tu người Tây Ban Nha Jose Maria Escrivá thành lập năm 1928, nhằm thúc đẩy sự quay về với các giá trị Thiên Chúa giáo bảo thủ và khuyến khích các thành viên thực hành các nghi lễ gột rửa hàng ngày để làm Tác phẩm của Chúa.
Triết lý truyền thống của Opus Dei đã bắt rễ ở Tây Ban Nha trước chế độ Franco, nhưng với sự xuất bản vào năm 1934 cuốn sách tinh thần Đạo của Josemaria Esscrivá - 999 điểm về việc thực hiện nhiệm vụ của Chúa trong đời sống cá nhân - thông điệp của Escrivá bùng nổ trên toàn thế giới. Giờ đây, với hơn bốn triệu bản của cuốn Đạo - phát hành bằng bốn mươi hai ngôn ngữ, Opus Dei đã trở thành lực lượng toàn cầu. Người ta có thể tìm thấy những khu nhà ở, các trung tâm giáo huấn, và thậm chí cả các trường đại học của Opus Dei ở hầu hết các thành phố lớn khắp thế giới. Opus Dei là tổ chức Thiên Chúa giáo phát triển nhanh nhất và vững vàng nhất về mặt tài chính trên thế giới. Thật không may, Aringarosa được biết, trong một thời đại nghi ngờ tôn giáo, các giáo phái, quyền lực và của cải mỗi lúc một leo thang của Opus Dei thành một cục nam châm thu hút sự ngờ vực. "Nhiều người gọi Opus Dei là một kiểu thờ cúng tẩy não".
Các phóng viên thường chất vấn. "Một số khác lại gọi các ông là tổ chức Cơ đốc giáo bí mật bảo thủ cực đoan. Vậy các ông là gì?".
"Opus Dei không phải cả hai thứ đó", giám mục kiên nhẫn trả lời. "Chúng tôi là một Giáo hội Thiên Chúa giáo. Chúng tôi là một giáo đoàn của những người Thiên Chúa giáo lấy việc tuân theo học thuyết Thiên Chúa giáo một cách nghiêm ngặt hết mức có thể trong đời sống hàng ngày làm ưu tiên".
"Liệu Tác phẩm của Chúa có nhất thiết bao gồm những nguyện thề giữ gìn sự trong trắng, thu hoa lợi cho nhà thờ, và chuộc tội lỗi bằng tự hành xác?".
"Các bạn chỉ mới miêu tả một phần nhỏ dân số của Opus Dei", Aringarosa nói. "Có rất nhiều mức độ tham gia. Hàng nghìn thành viên của Opus Dei đã kết hôn, có gia đình, và thực hiện các công việc của Chúa trong cộng đồng của chính họ.
Những người khác chọn cuộc sống tu khổ hạnh trong các tu viện của chúng tôi. Những lựa chọn này hoàn toàn là cá nhân, nhưng mọi người trong Opus Dei đều chia sẻ mục đích làm cho thế giới tốt đẹp hơn bằng việc thực hiện Tác phẩm của Chúa.
Chắc chắn đây là một sự kiếm tìm đáng ngưỡng mộ".
Tuy nhiên, lẽ phải hiếm khi phát huy tác dụng, các phương tiện truyền thông luôn xoay quanh các vụ tai tiếng, và Opus Dei, cũng như hầu hết các tổ chức lớn, luôn có một vài linh hồn lầm lạc trong số các thành viên của mình, làm ô danh cả nhóm.
Hai tháng trước, một nhóm Opus Dei ở một trường đại học miền Trung Tây nước Mỹ bị bắt quả tang cho những hội viên mới dùng mescaline gây ảo giác nhằm tạo trạng thái khinh khoái mà các tân tín đồ sẽ cảm nhận như là một trải nghiệm tôn giáo. Một sinh viên đại học khác dùng chiếc dây lưng hành xác có ngạnh quá mức yêu cầu hai tiếng mỗi ngày và bị nhiễm trùng gần chết. Ở Boston không lâu trước đây, một chủ ngân hàng đầu tư trẻ được giác ngộ đã hiến tất cả tiền tiết kiệm cả đời mình cho Opus Dei trước khi tự tử.
Những con chiên lạc lối, Aringarosa nghĩ, trái tim hướng về họ.
Tất nhiên, mất mặt nhất là phiên tòa xử tên gián điệp của FBI Robert Hanssen, một vụ được công bố rộng rãi. Ngoài việc là một thành viên nổi bật của Opus Dei, tên này hóa ra còn là kẻ bệnh hoạn tình dục. Vụ xét xử hắn đã tiết lộ những chứng cứ cho thấy hắn đã lắp camera quay trộm trong phòng ngủ để các bạn hắn có thể xem cảnh hắn làm tình với vợ. "Thật khó có thể là trò tiêu khiển của một người Thiên Chúa giáo mộ đạo", quan tòa nhấn mạnh.
Đáng buồn là tất cả những sự kiện này góp phần sinh ra một nhóm quan sát mới gọi là Mạng nhận thức Opus Dei (ODAN).
Trang web nổi tiếng của nhóm - www.odan.org kể lại những câu chuyện ghê sợ từ miệng những cựu thành viên Opus Dei.
Những người này cảnh báo mối nguy hiểm của việc gia nhập giáo phái. Các phương tiện truyền thông giờ đây gọi Opus Dei là "Mafia của Chúa" và "Sùng bái Kirixitô".
Chúng ta sợ những gi chúng ta không hiểu. Aringarosa nghĩ, tự hỏi liệu những người chỉ trích này có biết có bao nhiêu cuộc đời đã được Opus Dei làm tốt đẹp thêm lên. Giáo đoàn đã dược Vatican xác nhận đầy đủ và ban phước. Opus Dei là đoàn giáo sĩ cao cấp của riêng Giáo hoàng.
Tuy nhiên, gần đây, Opus Dei thấy mình đang bị đe dọa bởi một thế lực có sức mạnh gấp bội các phương tiện truyền thông… một kẻ thù bất ngờ mà Aringarosa không thể trốn chạy.
Năm tháng trước, sự biến ảo của quyền lực đã bị lung lay, và Aringarosa vẫn còn đang lảo đảo vì cú đòn đó.
"Chúng không biết cuộc chiến mà chúng châm ngòi", Aringarosa thì thầm với chính mình, nhìn qua cửa sổ máy bay xuống đại dương tối sẫm bên dưới. Trong giây lát, ông quay lại nhìn hình ảnh phản chiếu gương mặt không cân đối của mình - đen, dài, nổi bật lên là cái mũi khoằm, tẹt dí do đã từng bị đấm gẫy ở Tây Ban Nha khi ông còn là một nhà truyến giáo trẻ tuổi. Cái khuyết tật thể chất ấy giờ chả mấy ai để ý. Thế giới của Aringarosa là thế giới của linh hồn, đâu phải của thể xác.
Khi chiếc phi cơ đi qua bờ biển Bồ Đào Nha, điện thoại trong tấm áo thầy tu của Aringarosa rung lên theo chế độ tắt chuông.
Mặc dù luật hàng không cấm sử dụng điện thoại trong các chuyến bay, nhưng Aringarosa biết đây là cuộc gọi mà ông không thể để lỡ. Chỉ có một người biết số này, người đã gửi chiếc điện thoại này qua đường bưu điện cho Aringarosa.
Hồi hộp, Giám mục trả lời nhỏ nhẹ: "Vâng?".
"Silas đã biết chỗ của viên đá đỉnh vòm", người gọi nói, "Nó ở Paris. Trong nhà thờ Saint Sulpice".
Giám mục Aringarosa mỉm cười: "Thế thì chúng ta đang ở gần nó".
"Chúng tôi có thể đoạt nó ngay lập tức nhưng chúng tôi cần ảnh hưởng của cha".
"Tất nhiên rồi. Hãy nói cho tôi biết tôi phải làm gì".
Khi Aringarosa tắt máy, tim ông đập thình thịch. Một lần nữa, ông lại nhìn xuống khoảng không đêm tối, cảm thấy mình bé nhỏ hẳn bên cạnh những sự kiện do chính ông đã phát động.
Cách đó năm trăm dặm, gã bạch tạng tên là Silas cúi mình trên một bồn nước nhỏ và thấm máu trên lưng, nhìn những vệt đỏ loang tròn trong nước. Gột rửa mình với cây bàỉ hương và ta sẽ sạch sẽ, hắn cầu nguyện, trích dẫn Thánh ca. Hãy gột rửa, và ta sẽ trắng hơn tuyết.
Silas cảm thấy một linh tính được đánh thức - điều mà hắn chưa từng cảm thấy trong cuộc đời trước đây. Nó vừa gây kinh ngạc vừa kích thích hắn. Trong thập kỷ vừa rồi, hắn đã đi theo Đạo gột sạch bản thân khỏi tội lỗi… xây dựng lại cuộc đời… xóa sạch bạo lực trong quá khứ. Nhưng tối nay, tất cả đã ào trở lại.
Lòng căm thù mà hắn khó khăn vật lộn để chôn vùi đã được khơi dậy. Hắn bàng hoàng thấy quá khứ lại nổi lên nhanh biết bao. Và cùng với nó, tất nhiên, là kỹ năng của hắn. Đã cùn mòn nhưng còn được việc chán.
Thông điệp của Chúa Jesu là một thông điệp về hòa bình… về phi bạo lực…về tình yêu. Đây là thông điệp mà Silas được dạy ngay từ đầu và là thông điệp hắn luôn giữ trong trái tim. Nhưng đây cũng là thông điệp mà kẻ thù của Chúa Jesus đang đe dọa hủy hoại. Những kẻ đe dọa Chúa bằng vũ lực sẽ được đáp trả bằng vũ lực. Bất di bất dịch và kiên định.
Trong hai thiên niên kỷ, những người lính của Chúa đã bảo vệ đức tin của họ chống lại những kẻ định gạt bỏ nó. Tối nay, Silas đã được gọi tham gia trận chiến.
Lau khô các vết thương, hắn mặc chiếc áo choàng dài đến mắt cá chân, có mũ chùm đầu. Nó xấu xí, bằng len tối màu, làm nổi bật nước da và mái tóc trắng. Thắt chặt dây áo choàng quanh hông, hắn kéo mũ chùm lên đầu và ngắm nhìn mình trong gương bằng đôi mắt đỏ lừ. Các bánh xe đang chuyển động.



***Xem trang:
[1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15][16][17][18][19][20]
[21][22][23][24][25][26][27][28][29][30][31][32][33][34][35][36][37][38][39][40]
[41][42][43][44][45][46][47][48][49][50][51][52]

TOP WAP WORLDWIDE


mobiV trang ch

© GIAITRI102.TK
Thanks to XTGEM