Không bấm vùng phía trên kẻo mất tiền nhé!

Nơi ở khiêm tốn trong nhà thờ Saint Sulpice nằm trên tầng hai phía bên trái ban-công của dàn đồng ca. Một dãy hai phòng với nền đá và những đồ đạc tối thỉểu là nơi ở của Xơ Sandrine Bieil hơn mười năm qua. Tu viện gần ngay cạnh là chỗ ở trước đây của bà, nhưng bà thích sự yên tĩnh của nhà thờ và tự trang bị thêm cho mình một cái giướng, điện thoại và một lò sưởi nhỏ.
Là quản lý hành chính của nhà thờ, Xơ Sandrine chịu trách nhiệm lo liệu mọi khía cạnh phi tôn giáo như duy tu bảo dưỡng chung, thuê người giúp việc và hướng dẫn viên, giữ an toàn cho toà nhà sau giờ làm việc, đặt mua hàng dự trữ như rượu lễ và bánh thánh.
Đêm nay, đang ngủ trên chiếc giường nhỏ, bà bị tiếng điện thoại kêu lanh lảnh đánh thức. Mệt mỏi, bà nhấc ống nghe nhận điện.
"Xơ Sandrine, Nhà thờ Saint Sulpice".
"Xin chào Xơ" người đàn ông nói tiếng Pháp.
Xơ Sandrine ngồi dậy. Mấy giờ rồi? Bà nhận ra giọng bề trên của mình mặc dù trong mười lăm năm qua, bà chưa bao giờ bị ông đánh thức. Trưởng tu viện là một người ngoan đạo sâu sắc!
Ông thường về nhà và lên giường đi ngủ ngay sau lễ chầu.
"Ta xin lỗi nếu ta đánh thức Xơ", trưởng tu viện nói, giọng ông nghe yếu và bồn chồn. "Ta có một việc phải nhờ Xơ. Ta vừa nhận được một cú điện thoại tử một giám mục người Mỹ có thế lực. Có thể Xơ cũng biết ông ta? Manuel Aringarosa?".
"Người đứng đầu Opus Dei phải không ạ?". Tất nhiên là con biết ông ta. Ai trong Giáo hội không biết ông ta chứ? Giám mục đoàn bảo thủ của Aringarosa đã trở nên hùng mạnh trong những năm gần đây. Sự thăng tiến của họ đạt được bước nhảy vọt bắt đầu từ năm 1982 khi Giáo hoàng John Paul II bất ngờ nâng họ lên thành một "giám mục đoàn riêng của Giáo hoàng", phê chuẩn chính thức mọi thông tục của họ. Thật đáng ngờ, việc thăng cấp của Opus Dei xẩy ra vào đúng năm cái giáo phái giàu có chuyển gần một tỉ đô la vào Viện Công trình tôn giáo của Vatican - thường được gọi là Ngân hàng Vatican - giúp nó thoát khỏi một cuộc phá sản phiền toái. Hành xử thứ hai cũng gây ngạc nhiên: Giáo hoàng đã đặt người sáng lập Opus Dei trên "đường tắt "đến chức vị thánh, rút ngắn thời gian chờ đợi phong thánh thường là cả thế kỷ xuống còn hai mươi năm. Xơ Sandrine không khỏi cảm thấy địa vị cao của Opus Dei ở Roma là đáng ngờ, nhưng ai mà dám tranh cãi với Tòa Thánh.
"Giám mục Aringarose gọi đến nhờ ta một việc", linh mục nói với bà, giọng e ngại. "Một trong số những môn đồ của ông ấy đang ở Paris tối nay…".
Khi Xơ Sandrine nghe thấy yêu cầu kỳ lạ đó, bà càng cảm thấy khó hiểu: "Con xin lỗi, cha nói là chuyến viếng thăm của thành viên Opus Dei không thể chờ đến sáng mai hay sao?".
"Ta e là không. Chuyến bay của anh ta sẽ cất cánh lúc sáng sớm. Anh ta luôn mơ ước được ngắm nhìn nhà thờ Saint-Sulpice".
"Nhưng nhà thờ ngắm ban ngày ắt thú vị hơn nhiều. Những tia nắng mặt trới chiếu qua những mắt kính, những cái bóng được phân độ trên đồng hồ mặt trời cái ấy mới làm cho Saint-Sulpice trở thành có một không hai".
"Xơ, ta đồng ý với Xơ, nhưng nếu Xơ để cho anh ta vào tối nay, ta sẽ coi đó là một ân huệ cá nhân đối với ta. Anh ta có thể có mặt ở đó lúc… lúc một giờ được chứ? Tức là khoảng hai mươi phút nữa".
Xơ Sandrine cau mày: "Tất nhiên. Con xin vui lòng".
Linh mục cảm ơn bà rồi gác máy.
Bối rối, Xơ Sandrine ngồi trong cái giường ấm áp thêm một chút, cố gắng tống khứ cơn buồn ngủ. Cơ thể sáu mươi tuổi của bà không tỉnh giấc nhanh như trước đây được nữa, mặc dù cuộc điện thoại đêm nay chắc chắn đã đánh thức các giác quan của bà. Opus Dei luôn làm bà khó chịu. Ngoài việc giáo đoàn này một mực theo những nghi lễ huyền bí của sự tự hành xác, quan điểm của họ về phụ nữ tiến bộ nhất cũng chỉ ở mức trung cổ.
Bà đã bị sốc khi biết rằng những môn đồ nữ bị buộc phải lau dọn phòng ở của nam giới không công trong khi đám này dự lễ chầu; phụ nữ ngủ trên sàn gỗ cứng, trong khi đàn ông có những chiếc chiếu rơm; và phụ nữ buộc phải chịu thêm những quy định bổ sung trong hành xác… tất cả những cái đó xem như hình phạt bổ sung vì tội tổ tông truyền. Có vẻ như việc Eva cắn vào quả táo tri thức là một món nợ mà phụ nữ bị kết án phải trả đời đời. Thật đáng buồn, trong khi hầu hết các nhà thờ Thiên Chúa giáo đang dần dần đi theo con đường đúng đắn với sự tôn trọng phụ nữ, thì Opus Dei lại đe dọa đảo ngược tiến trình. Mặc dù vậy, Xơ Sandrine đã nhận lệnh.
Ra khỏi giường, bà từ từ đứng dậy, ớn lạnh vì sàn đá dưới đôi chân trần. Khi cảm giác ớn lạnh ngấm vào da thịt, bà cảm thấy một nỗi lo sợ bất ngờ.
Linh cảm của phụ nữ?
Là con chiên của Chúa, Xơ Sandrine biết là phải tìm sự yên bình trong tiếng nói xoa dịu của linh hồn bà. Tuy nhiên, tối nay, những tiếng nói ấy cũng im lặng như nhà thờ trống không bao quanh bà.


Langdon không thể rời mắt khỏ những dòng chữ nguệch ngoạc màu tía đang rực lên trên sàn gỗ. Điều truyền đạt cuối cùng của Jacques Saunière xem ra không giống một lời trăng trối mà Langdon có thể tưởng tượng.
Lời nhắn như sau:
13-3-2-21-1-1-8-5
Ôi quỷ hà khắc!
Ôi thánh yếu đuối.
Mặc dù hoàn toàn không hiểu ý nghĩa của thông điệp này- nhưng Langdon chợt hiểu chính bản năng đã mách Fache rằng hình sao năm cánh là một cái gì đó có liên quan đến sự tôn thờ ma quỷ.
Ôi quỷ hà khắc!
Saunière đã để lại một ám chỉ rành rành đến quỷ. Cũng kỳ quái không kém là dãy số. "Một phần của nó có vẻ giống như mật mã số".
"Đúng", Fache nói. "Nhân viên mật mã của chúng tôi đang giải mã nó. Chúng tôi tin rằng những con số này có thể là chìa khóa dẫn đến kẻ sát nhân. Có thể là một tổng đài điện thoại hoặc một thứ thẻ căn cước nào đó. Liệu những con số này có ý nghĩa biểu tượng nào với ông không?".
Langdon nhìn lại những con số, cảm thấy sẽ mất nhiều giờ để rút ra một ý nghĩa biểu tượng nào đó. Nếu Saunière định đưa vào một ý nghĩa biểu tượng nào đó. Đối với Langdon, các con số trông hoàn toàn ngẫu nhiên. Ông quen với những dãy biểu tượng có vẻ có tương quan ý nghĩa, nhưng mọi thứ ở đây- hình sao năm cánh, đoạn văn, các con số - dường như hoàn toàn khác biệt về cơ bản.
Ban nãy ông đã khẳng định", Fache nói, "rằng những hành động của Saunière ở đây đều nhằm nỗ lực gửi lại một lời nhắn ngắn gọn… sự tôn thờ nữ thần hay một điều gì tương tự? Lời nhắn này ăn nhập như thế nào?".
Langdon biết câu hỏi này chỉ là mỹ tự. Thông điệp kỳ quặc này rõ ràng không ăn khớp với kịch bản về sự tôn thờ nữ thần của Langdon một chút nào.
Ôi quỷ hà khắc là gì? Ôi, thánh yếu đuối là gì?
Fache hỏi: "Đoạn văn này có vẻ như một kiểu kết tội. Ông đồng ý không?".
Langdon cố gắng tướng tượng ra những phút cuối cùng của ông phụ trách bảo tàng khi ông mắc kẹt trong Hành Lang Lớn, biết rằng mình sắp chết. Có vẻ lôgic đấy. "Kết tội kẻ sát hại ông là có lý, tôi cho là như vậy".
"Công việc của tôi, tất nhiên là tìm ra tên của kẻ đó. Cho phép tôi hỏi ông điều này, ông Langdon. Đập vào mắt ông ngoài những con số, thì lời nhắn này có gì lạ nhất?".
Lạ nhất. Một người sắp chết dựng rào chắn tự hãm mình trong hành lang, vẽ một ngôi sao năm cánh lên người mình, và viết nguệch ngoạc một lời kết tội bí ẩn trên sàn. Có cái gì trong kịch bản này là không lạ?
"Từ "hà khắc" (dracoman) thì sao?" Ông đánh bạo nói ra ý nghĩ đầu tiên xuất hiện trong đầu. Langdon tin chắc chả có lý nào một người sắp chết lại nghĩ tới Draco - một chính trị gia hà khắc thế kỷ VII trước Công nguyên(1). "Quỷ hà khắc" xem ra là một sự lựa chọn từ ngữ kỳ quặc".
"Hà khắc?" Giọng Fache có vẻ hơi sốt ruột. "Việc Saunìere chọn từ ngữ khó có thể xem là vấn đề ưu tiên".
Langdon không biết chắc Fache nghĩ đến vấn đề gì trong đầu, nhưng ông bắt đầu ngờ ngợ rằng Draco và Fache có thể ăn ý với nhau.
"Saunière là người Pháp", Fache nói dứt khoát. "Ông ấy sống ở Paris. Nhưng ông ấy chọn viết lời nhắn này…".
"Bằng tiếng Anh!", Langdon nói, bây giờ thì ông đã nhận ra ý của viên đại uý.
Fache gật đầu: "Chính xác. Ông có biết tại sao lại thế không?".
Langdon biết Saunière nói tiếng Anh không chê vào đâu được, nhưng lý do khiến ông ta chọn tiếng Anh để viết những lời cuối cùng, hoàn toàn lọt khỏi sự chú ý của ông.
Ông nhún vai.
Fache chỉ lại vào hình sao năm cánh trên bụng Saunière:
"Không có gì liên quan đến sự tôn thờ ma quỷ sao? ông vẫn chắc như vậy chứ?".
Langdon không còn chắc chắn bất kỳ điều gì nữa: "Hệ ký hiệu và văn bản xem ra không trùng khớp. Tôi xin lỗi là tôi không thể giúp gì hơn".
"Có thể điều này sẽ làm cho mọi sự rõ ràng". Fache lùi xa khỏi thi thể, giơ chiếc đèn tia tử ngoại lên một lần nữa, để chùm sáng tỏa ra một góc rộng hơn. "Còn bây giờ thì sao?".
Langdon kinh ngạc thấy một vòng tròn thô sáng lên quanh thi thể ông phụ trách bảo tàng. Vẻ như Saunière đã nằm xuống, lấy bút khoanh mấy vành cung quanh người, cốt lồng mình trong vòng tròn.
Loáng một cái, ý nghĩa của nó vụt trở nên rõ ràng.
"Người Vitruvian". Langdon há hốc miệng. Saunière đã tạo một bản sao với kích thước người thật bức ký họa nổi tiếng nhất của Leonardo Da Vinci.
Được xem là bức vẽ đúng nhất về mặt giải phẫu học ở thời đại đó bức Người Vitruvian của Da Vinci giờ đã trở thành bức thánh tượng thời nay của văn hóa, xuất hiện trên tranh ảnh quảng cáo, đệm di chuột máy tính, áo phông trên toàn thế giới.
Bức ký họa trứ danh này gồm một vòng tròn trong đó có một hình khoả thân nam… tay chân dang thẳng.
Da Vinci. Langdon cảm thấy run lên vì sửng sốt. Chủ ý của Saunière đã rõ rành rành không thể chối cãi. Trong những khoảng khắc cuối cùng của đời mình, ông phụ trách bảo tàng đã cởi bỏ hết quần áo và sắp xếp cơ thể mình thành một hình ảnh rõ ràng mô phỏng bức Người Vitruvian của Leonardo Da Vinci.
Vòng tròn chính là yếu tố cơ bản bị thiếu. Là biểu tượng nữ về sự bảo vệ, vòng tròn xung quanh người đàn ông khoả thân hoàn tất chủ ý của Da Vinci - sự hài hòa giữa nam và nữ. Tuy nhiên, câu hỏi bây giờ là tại sao Saunière lại mô phỏng một bức vẽ nổi tiếng.
"Ông Langdon", Fache nói, "chắc chắn một người như ông phải biết Leonardo Da Vinci có khuynh hướng thiên về ma thuật".
Langdon ngạc nhiên vì hiểu biết của Fache về Da Vinci, và chắc chắn phải mất nhiều công mới giải thích được những hồ nghi của viên đại uý về sự tôn thờ ma quỷ. Da Vinci luôn là một đề tài khó xử đối với các nhà sử học, đặc biệt trong truyền thống Thiên Chúa giáo. Mặc dù là một thiên tài thấu thị, ông lại là một người đồng tính luyến ái phô trương và là người tôn sùng trật tự thần thánh của Tự nhiên, cả hai điều đó đặt ông vào trạng thái thường xuyên phạm tội với Chúa. Hơn thế nữa, tính lập dị kỳ quái của người nghệ sĩ này phóng chiếu ra một vòng hào quang rành là ma quỷ: Da Vinci khai quật các xác chết để nghiên cứu giải phẫu con người; ông ghi những cuốn nhật ký kỳ bí bằng chữ viết tay đảo ngược không thể đọc được; ông tin rằng ông có sức mạnh giả kim thuật để biến chì thành vàng và thậm chí lừa dối Chúa bằng việc tạo ra một loại rượu thuốc để trì hoãn cái chết và những sáng chế của ông bao gồm các vũ khí chiến tranh và dụng cụ tra tấn khủng khiếp chưa từng ai tưởng tượng ra.
Hiểu lầm sinh ra ngờ vực. Langdon nghĩ.
Thậm chí số lượng lớn những tác phẩm nghệ thuật Thiên Chúa giáo kỳ vĩ của Da Vinci chỉ càng khiến ông khét tiếng là giả dối về tâm linh. Nhận hàng trăm đơn đặt hàng béo bở của Vatican, Da Vinci vẽ đề tài Thiên Chúa giáo không phải như một sự bộc lộ đức tin của chính mình mà thực chất là vì một sự kinh doanh thương mại - một phương tiện để chu cấp cho một lối sống hoang phí. Khốn thay, Da Vinci là kẻ thích chơi khăm, ông thường hay tiêu khiển bằng cách thản nhiên gặm nhấm bàn tay nuôi sống ông. Ông đưa vào nhiều bức vẽ Thiên Chúa giáo của mình các biểu tượng tàng ẩn không mảy may Cơ đốc - những vật cống nạp cho những tín ngưỡng của riêng ông và một sự chế nhạo tinh vi đối với Giáo hội. Langdon thậm chí đã từng có bài thuyết giảng ở Bảo tàng Quốc gia London nhan đề: Cuộc sống bí mật của Leonardo: Hệ biểu tượng vô đạo trong Nghệ Thuật Thiên Chúa giáo.
"Tôi hiểu những lo ngại của ông", bây giờ Langdon mới nói. "Nhưng Da Vinci quả thật chưa bao giờ thực hiện bất kỳ ma thuật nào. Ông là người giàu tâm linh phi thường mặc dù hay có xung đột với Nhà Thờ". Khi Langdon nói điều này, một ý nghĩ kỳ lạ chợt nẩy ra trong đầu ông. Ông dưa mắt nhìn xuống lời nhắn trên sàn một lần nữa. Ôi, quỷ hà khắc! Ôi, thánh yếu đuối!
"Gì thế?" Fache nói.
Langdon thận trọng cân nhắc từng lời: "Tôi chỉ đang nghĩ rằng Saunière chia sẻ nhiều hệ ý thức tâm linh với Da Vinci, kể cả mối quan tâm đến việc Nhà Thờ loại bỏ tính nữ thiêng liêng khỏi tôn giáo hiện đại. Có thể, bằng việc bắt chước một bức vẽ nổi tiếng của Da Vinci, Saunière chỉ đơn thuần phản ánh một vài điều thất vọng chung của họ đối với việc Giáo hội hiện đại quỷ hóa nữ thần".
Mắt Fache đanh lại: "Ông nghĩ rằng Saunière gọi Giáo hội là quỷ hà khắc và thánh yếu đuối sao?".
Langdon buộc phải thừa nhận rằng ý này có vẻ gượng ép, nhưng hình sao năm cánh dường như xác nhận ý tưởng đó ở một mức độ nào đó. "Tất cả những gì tôi đang nói là ông Saunière đã cống hiến cả cuộc đời cho việc nghiên cứu lịch sử nữ thần, và không ai làm nhiều hơn Giáo hội Thiên Chúa giáo để xóa đi lịch sử ấy. Dường như có lý khi cho rằng Saunière có thể đã quyết định biểu lộ sự thất vọng của mình trong lời vĩnh biệt cuối cùng".
"Thất vọng?", Fache hỏi, giọng dữ dằn. "Lời nhắn này nghe có vẻ tức giận hơn là thất vọng, đúng không?".
Langdon đã hết kiên nhẫn: "Đại uý, ông hỏi tôi linh cảm thế nào về điều Saunière định nói ở đây, và đó là câu trả lời của tôi".
"Như vậy thì đây là một bản kết tội Giáo hội?" Quai hàm Fache siết lại khi ông nói qua hàm răng nghiến chặt. "Ông Langdon, tôi đã nhìn thấy nhiều cái chết trong công việc của tôi và hãy để tôi nói với ông vài điều. Khi một người bị kẻ khác giết hại, tôi không tin rằng những ý nghĩ cuối cùng của người đó là viết ra một phát biểu tâm linh mù mờ đến mức không ai hiểu nổi. Tôi tin ông ấy chỉ nghĩ đến một thứ mà thôi".
Giọng nói thì thầm của Fache xẻ vào không khí: "La vengeance"(2). Tôi tin Saunière viết những lới này để nói với chúng ta ai là kẻ giết ông ấy".
Langdon nhìn trân trân: "Nhưng như thế chẳng có nghĩa gì hết".
"Không ư?".
"Phải", ông quặc lại, mệt mỏi và thất vọng, "Ông nói với tôi rằng Saunière đã bị tấn công trong văn phòng ông ấy bởi một ai đó mà rõ ràng ông đã mời vào".
"Đúng thế".
"Vậy có vẻ hợp lý khi kết luận rằng ông phụ trách bảo tàng biết rõ kẻ tấn công ông ấy".
Fache gật đầu: "Tiếp tục đi".
"Vậy nếu Saunière biết rõ kẻ giết ông ấy, thì đây là một bản cáo trạng kiểu gì?". Ông chỉ xuống sàn. "Mật mã số? Những vị thánh yếu đuối? Những con quỷ hà khắc? Hình sao năm cánh trên bụng ông ấy? Tất cả đều kỳ bí".
Fache cau mày như thể ông ta chưa từng nghĩ đến điều đó.
"Ông có lý".
"Xét các tình huống", Langdon nói, "tôi cho rằng nếu Saunière muốn nói cho ta biết ai đã giết ông ấy, thì ông ấy tất sẽ viết tên một ai đó chứ".
Khi Langdon nói những lời này, lần đầu tiên trong cả buổi tối nay một nụ cười tự mãn vụt qua trên môi Fache.
"Précisément"(3) , Fache nói, "Précisément".
Mình đang chứng kiến công việc của một bậc thầy, trung úy Collet trầm ngâm khi anh vặn cần máy audio của mình và nghe giọng Fache qua tai nghe. Viên cảnh sát biết những khoảnh khắc như thế này sẽ đẩy viên đại uý lên đến cực điểm trong việc thi hành luật pháp của Pháp.
Fache sẽ làm những việc mà không ai khác dám làm.
Nghệ thuật phỉnh dụ tinh tế là một kỹ năng thất truyền trong việc thi hành luật pháp hiện đại, một điều đòi hỏi bản lĩnh phi thường dưới áp lực. Rất ít người có được sự bình tĩnh lạnh lùng cần thiết cho loại hoạt động này, nhưng Fache hình như sinh ra là để dành cho nó. Sự kiềm chế và kiên nhẫn của ông ta mấp mé tới độ như người máy.
Xúc cảm duy nhất của Fache trong buổi tối nay dường như là một quyết tâm mãnh liệt, tựa hồ cuộc bắt giữ này, cách nào đó, là chuyện cá nhân của ông ta vậy. Thông báo của Fache cho nhân viên của mình một giờ trước đây ngắn gọn khác thường và chắc như đinh đóng cột. Tôi biết ai giết Saunière, Fache nói.
Các bạn biết phải làm gì. Tối nay không được phép có sai lầm. Và cho đến bây giờ, chưa một sai lầm nào xảy ra.
Collet chưa biết bằng chứng nào đã khiến Fache tin chắc về tội của nghi phạm, nhưng anh không mảy may nghi ngờ trực giác của Bò Mộng. Trực giác của Fache đôi lúc dường như là siêu nhiên. Chúa thì thầm vào tai ông ta, một cảnh sát đã nhấn mạnh sau một lần giác quan thứ sáu của Fache được biểu thị một cách đặc biệt ấn tượng. Collet phải thừa nhận, nếu như có Chúa, thì Bezu Fache ắt nằm trong danh sách loại A của Ngài.
Người đại úy này đi lễ nhà thờ và xưng tội đều đặn nhiệt thành - đều đặn hơn nhiều so với việc dự các cuộc giao tế dân sự cần thiết vào ngày nghỉ mà các viên chức khác thực hiện dưới danh nghĩa quan hệ quần chúng tốt. Khi Giáo hoàng thăm Paris vài năm trước, Fache đã dùng mọi khả năng để được vinh dự là khán giả. Một bức ảnh của Fache với Giáo hoàng đang được treo trong phòng làm việc của ông. Con Bò Mộng của Giáo hoàng, các nhân viên ngầm gọi nó như thế.
Điều Collet thấy nực cười là một trong những thái độ công khai hợp lòng dân hiếm hoi của Fache trong những năm gần đây, là phản ứng thẳng thắn của ông ta với vụ tai tiếng về lạm dụng tình dục trẻ em trong Thiên Chúa giáo. Những thày tu này đáng bị treo cổ hai lần! Fache tuyên bố. "Một lần vì tội ác của chúng với trẻ con. Và một lần vì sự bôi nhọ thanh danh của Nhà Thờ Thiên Chúa giáo. Collet có cảm giác kỳ lạ rằng chính điều thứ hai lại khiến Fache phẫn nộ hơn.
Quay lại máy tính xách tay của mình, Collet làm nốt phần sau thuộc trách nhiệm tối nay của anh - hệ thống truy tìm CPS.
Hình ảnh trên màn hình cho thấy sơ đồ mặt sàn chi tiết của Cánh Denon, một lược đồ cấu trúc lấy từ Phòng An Ninh Louvre. Đưa mẩt dò theo mê cung các phòng trưng bày và hành lang, Collet tìm ra cái anh ta đang tìm kiếm.
Sâu trong trung tâm của Hành Lang Lớn nhấp nháy một chấm đỏ nhỏ xíu.
La marque (4)
Tối nay Fache đang giữ con mồi trong một sợi dây buộc chặt.
Cũng khôn ngoan không kém, Robert Langdon tỏ ra là một vị khách điềm tĩnh.

Chú thích:
(1) dracoman (hà khắc) có gốc từ Draco
(2) Tiếng Pháp trong nguyên bản: sự báo thù.
(3) Tiếng Pháp trong nguyên bản: Đích thị.
(4) Tiếng Pháp trong nguyên bản: dấu chỉ điểm (trong trường hợp này chỉ Robert Langdon, ngưởi đang bị theo dõi bằng hệ thống IPS).



***Xem trang:
[1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15][16][17][18][19][20]
[21][22][23][24][25][26][27][28][29][30][31][32][33][34][35][36][37][38][39][40]
[41][42][43][44][45][46][47][48][49][50][51][52]

TOP WAP WORLDWIDE


mobiV trang ch

© GIAITRI102.TK
Thanks to XTGEM

XtGem Forum catalog