XtGem Forum catalog
Không bấm vùng phía trên kẻo mất tiền nhé!

Có lẽ Nhà Trắng chính là phủ Tổng thống nhỏ nhất trên thế giới với bề ngoài 170 foot, bề dọc 85 foot, và toạ lạc trên khu đất chỉ có 85 hecta. Các thẩm phán đã ca ngợi bản thiết kế của toà nhà này là "hấp dẫn, bề thế, linh hoạt" - và trong số tất cả những bản thiết kế được gửi đến dự thi, họ lựa chọn ý tưởng chẳng lấy gì làm độc đáo này của kiến trúc sư James Horban - mái nhà tầm thường, lan can nhàm chán, lại còn cả lối vào với hai hàng cột hai bên.
Dù đã ở trong toà nhà này được ba năm rưỡi. Tổng thống Zach Herney rất hiếm khi cảm thấy khu mê cung với những đồ cổ, đèn chùm và lính thuỷ đánh bộ có vũ trang đứng gác này thực sự là ngôi nhà của mình. Lúc này ông đang sải bước về cánh trái của toà nhà trong tâm trạng vô cùng phấn khích, chân ông lướt nhẹ trên những tấm thảm trải sàn sang trọng.
Một số nhân viên của Nhà Trắng ngẩng lên nhìn khi Herney đến gần. Ông gọi tên và chào từng người. Phản ứng của họ, dù vẫn lịch sự, không được nhiệt thành cho lắm, và những nụ cười đáp lễ đều có vẻ gượng gạo.
- Chào Tổng thống ạ.
- Rất vui được gặp Tổng thống.
- Chúc Tổng thống một ngày tốt lành.
Quay về Nhà Trắng, Tổng thống có thể cảm thấy những lời xì xào của họ. Bên trong Nhà Trắng đang có cuộc đảo chính ngầm.
Mấy tuần nay sự thất vọng ở số nhà 1600 đại lộ Pensilvania đã lên cao đến mức Herney bắt đầu cảm thấy tình cảnh của mình chẳng khác gì tình cảnh của thuyền trưởng Bligh - chỉ huy một con tàu đang tham chiến trong khi thuỷ thủ trên tàu chuẩn bị nổi loạn chống lại chính thuyền trưởng của họ.
Tổng thống không trách họ. Nhân viên của ông đã làm việc cật lực để hỗ trợ cho ông trong chiến dịch tranh cử này, và lúc này, đột nhiên ông tỏ ra muốn buông xuôi.
Họ sẽ hiểu ra ngay thôi, ông thầm nghĩ, chẳng mấy chốc mình sẽ lại là người hùng.
Ông không muốn giấu nhân viên của mình lâu như vậy, nhưng điều này cần phải tuyệt đối bí mật. Về chuyện giữ bí mật thì ai cũng biết rằng Nhà Trắng là con tàu có nhiều lỗ rò nhất Washington.
Herney đến sảnh đợi ngoài phòng bầu dục và xởi lởi chào cô thư ký riêng.
- Hôm nay trông cô đẹp lắm, Dolores ạ.
- Sếp cũng thế ạ. - Cô ta nhìn bộ quần áo dân dã của Tổng thống với vẻ không vừa ý ra mặt.
Herney hạ giọng:
- Cô hãy thu xếp cho tôi một cuộc họp.
- Với ai ạ?
- Toàn bộ nhân viên Nhà Trắng.
Cô thư ký ngước lên:
- Tất cả ạ? Toàn bộ 145 người ạ?
- Chính xác.
- Ngay bây giờ ạ?
- Sao lại không? Báo họ 4 giờ chiều nhé.
Cô thư ký gật đầu, cố giữ điềm tĩnh.
- Vâng, thưa Tổng thống, và nội dung của cuộc họp là…
- Tối nay tôi có tin quan trọng để báo cho toàn nước Mỹ, và tôi muốn nhân viên của mình được biết trước điều đó.
Vẻ thất vọng hiện rõ trên gương mặt của cô thư ký, như thế cô ta đã e sợ giây phút này từ lâu. Dolores hạ giọng:
- Tổng thống định không tranh cử nữa sao?
Herney phá lên cười:
- Không đâu, Dolores ạ, tôi còn định tăng tốc lên ấy chứ.
Cô vẫn chưa tin ngay. Gần đây các phương tiện thông tin đại chúng đều cho rằng Tổng thống đang có ý định rút lui.
Ngài Tổng thống nháy mắt nhìn Dolores khích lệ:
- Dolores này, cô đã làm việc rất tốt cho tôi trong bốn năm qua, và cô sẽ tlếp tục làm việc cho tôi thêm bốn năm nữa. Tôi thề đấy.
Cô thư ký có vẻ chưa tin hẳn. - Được ạ, thưa Tổng thống, tôi sẽ báo cho toàn bộ nhân viên có mặt vào bốn giờ chiều nay.
Bước vào phòng bầu dục, Herney không thể nhịn được cười khi nghĩ đến cảnh tất cả nhân viên sẽ phải chen chúc trong căn phòng chật chội quái quỷ này.
Trong số những tên tục của căn phòng này - nhà vệ sinh, hang ổ của Dick, phòng ngủ của Clinton - Herney thích nhất cái tên "bẫy bạch tuộc". Cái tên này có vẻ hợp hơn cả. Khi bước vào căn phòng này, người lạ sẽ ngay lập tức bị mất phương hướng. Đồ đạc được xếp đặt đối xứng nhau, những bức tường cong, những cửa phụ được bố trí kín đáo, tất cả dường như mang lại cho những người lạ cảm giác bị bịt mắt dẫn đi vòng tròn. Rất nhiều lần, sau khi tiếp kiến xong, các vị quyền cao chức trọng đứng lên, bắt tay Tổng thống và tiến thẳng đến chỗ tủ để đồ. Tuỳ thuộc vào kết quả cuộc hội kiến, Herney sẽ bảo người khách ấy dừng lại ngay, hoặc là khoái chá quan sát khách của mình lâm vào tình thế sượng sùng khó xử.
Herney luôn luôn tin rằng chính phù điêu đại bàng đầy màu sắc được dệt trên tấm thảm hình bầu dục mới là vật có ảnh hưởng và quyền uy nhất trong căn phòng bầu dục này. Chân trái con đại bàng quắp nhành ôliu, chân phải quắp một nắm cung tên. Rất ít người ngoài biết rằng trong thời bình, con chim đại bàng quay đầu về bên trái, về phía cành ôliu. Nhưng trong thời chiến, nó quay mặt sang bên phải một cách đầy bí ẩn - quay về phía những mũi tên.
Nhân viên trong Nhà Trắng vẫn thì thầm bàn tán về nguyên nhân của sự thay đổi đặc biệt này, vì theo truyền thống, bí mật này chỉ có hai người được biết - Tổng thống và tạp vụ trưởng. Tổng thống đã khá thất vọng khi biết rằng bí mật này hoá ra rất tầm thường và trần tục: Trong nhà kho bên dưới tầng hầm có tấm thảm thứ hai, và người ta chỉ thay thảm vào lúc đêm khuya khi tất cả mọi người đều đã ngủ.
Lúc này, ngắm chú chim đại bàng thời bình đang quay đầu sang trái, Herney mỉm cười nghĩ có lẽ nên cho thay thảm để công bố cuộc chiến mà ông sắp phát động chống lại Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton.


Delta là đơn vị lính chiến đấu duy nhất của Hoa Kỳ được miễn trừ mọi trách nhiệm hình sự.
Chỉ thị số 25 của Tổng thống (PDD 25) đã đặc cách cho binh lính thuộc đội Delta quyền miễn trừ tất cả các trách nhiệm trước pháp luật, kể cả Luật về các hoạt động đặc nhiệm - một đạo luật quy định trách nhiệm hình sự đối với những ai lợi dụng quân đội nhằm tư lợi cá nhân, để tiến hành các hoạt động hành pháp trong nội địa nước Mỹ, và để tiến hành các chiến dịch bí mật chưa được phê chuẩn. Các thành viên của Delta được lựa chọn từ đội Lính tinh nhuệ, một biệt đội đặc biệt thuộc cơ số của Đơn vị các chiến dịch đặc biệt có đại bản doanh ở pháo đài Bragg, bắc Carolina.
Những thành viên của Delta đều là những sát thủ được đào tạo bài bản - họ là những chuyên gia trong các chiến dịch SWAT, giải cứu con tin, tấn công chớp nhoáng và tiêu diệt các thế lực thù địch giấu mặt.
Do những điệp vụ họ mà tham gia đều được liệt vào danh sách tối mật, thông lệ nhiều tầng chỉ huy đã được giản lược thành một đầu mối duy nhất - chỉ có một quan chức duy nhất chỉ huy mọi hoạt động của toàn đội. Vị chỉ huy đó thường là một sĩ quan cao cấp trong quân đội hoặc một nhân vật quyền thế nào đó trong nội các có đủ thẩm quyền điều khiến chiến dịch. Bất kể vị chỉ huy đó là ai thì các điệp vụ của đội Delta luôn được xếp vào loại tối quan trọng, và các đội viên của Delta không bao giờ kể lại những nhiệm vụ mà họ được giao và đã hoàn thành, với những thành viên khác của đội, cả với chỉ huy của đội lính tinh nhuệ.
Bay đến. Chiến đấu. Quên hết.
Đội lính Delta đang đóng quân phía trên vĩ tuyến 81 không hề bay, cũng chẳng phải chiến đấu. Họ đang quan sát.
Delta-Một phải thừa nhận rằng đây là điệp vụ kỳ lạ nhất trong đời lính của mình, nhưng anh đã được huấn luyện để không bị ngạc nhiên trước bất kỳ nhiệm vụ nào. Trong vòng năm năm trở lại đây anh đã tham gia giải cứu con tin ở Trung Đông, theo dõi và tiêu diệt các nhóm khủng bố hoạt động trên đất Mỹ, và cả bí mật thủ tiêu một số phần tử nguy hiểm ở nước ngoài.
Tháng trước, đội Delta của anh vừa dùng một robot bay siêu nhỏ để làm cho một trùm ma tuý khét tiếng ở Nam Mỹ bị nhồi máu cơ tim. Sử dụng vi robot được gắn một cây kim titan chỉ nhỏ bằng một sợi tóc, bên trong chứa loại hoá chất tạo cơn co mạch máu, Delta-Hai đã điều khiển cho con vi robot bay vào nhà qua cửa sổ để ngỏ trên tầng hai, tìm phòng ngủ của hắn, và châm kim vào vai khi hắn đang ngủ say. Vi robot thoát ra ngoài qua cửa sổ và trở thành "vô can" trước khi cơn đau trong lồng ngực khiến gã thức giấc. Khi vợ gã thức dậy gọi xe cấp cứu thì Delta-Hai đã điều khiển vi robot rút về căn cứ.
Không cần đào tường khoét ngạch và đột nhập.
Cái chết có lí do tự nhiên.
Một điệp vụ hoàn mỹ.
Mới đây, một vi robot được cài vào trong văn phòng của một Thượng nghị sĩ tên tuổi đã truyền về những hình ảnh của cuộc truy hoan thác loạn. Đội Delta vẫn gọi đùa điệp vụ đó là "thọc sâu vào sau lòng địch".
Giờ đây, sau mười ngày nằm tại chiếc lều này để làm nhiệm vụ do thám, Delta-Một cảm thấy điệp vụ này sắp kết thúc.
Nguỵ trang và giữ bí mật.
Điều khiển thiết bị bay vào trong và ra ngoài.
Báo cáo chỉ huy nếu thấy có dấu hiệu bất thường.
Delta-Một đã được tôi luyện để không cho tình cảm xen vào chuyện công việc. Tuy nhiên, khi nghe thông báo vắn tắt nhiệm vụ lần này, tim anh đã thoáng loạn nhịp. Người ra lệnh cho họ hoàn toàn "nặc danh" - mọi liên lạc đều diễn ra thông qua những kênh điện tử an toàn. Delta-Một chưa một lần giáp mặt chỉ huy điệp vụ này.
Delta-Một đang chuẩn bị bữa ăn gồm những loại thực phẩm sấy khô cho cả đội thì chiếc đồng hồ trên tay anh và cả của hai người kia cùng kêu bíp bíp. Sau chốc lát, thiết bị liên lạc điện tử cạnh anh nhấp nháy đèn. Anh bỏ túi lương khô xuống và nhấc thiết bị liên lạc lên. Hai người kia im lặng quan sát.
- Delta-Một đây. - Anh nói vào chiếc micro điện tử.
Ba âm tiết ấy lập tức được phần mềm nhận dạng giọng nói cài đặt trong hệ thống xử lý. Từng từ một được đánh số, rồi được mã hoá và truyền đến người nghe qua vệ tinh nhân tạo. Tại đầu máy của người gọi, với thiết bị y chang, những con số được giải mã, rồi được chuyển qua từ điển phát âm điện tử. Những từ này được phát ra với chất giọng điện tử. Tổng thời gian của toàn bộ chu trình này là 80 phần ngàn của một giây đồng hồ.
- Chỉ huy đây - người điều khiển điệp vụ nói. Giọng nói từ CrypTalk phát ra nghe lạ lùng, khác thường và phi giới tính. - Tình hình thế nào?
- Tất cả diễn ra đúng kế hoạch. - Delta-Một trả lời.
- Tuyệt. Có thay đổi trong chương trình hoạt động. Tám giờ tối nay, giờ miền Đông, dân chúng sẽ được thông báo toàn bộ sự việc.
Delta-Một xem lại thời gian biểu. Chỉ còn tám giờ nữa. Nhiệm vụ của anh ở nơi này sẽ sớm kết thúc. Thật dễ chịu.
- Thêm một thay đổi nữa. - Vị chỉ huy nói tiếp. - Thêm một đấu thủ nữa lên sới.
- Đấu thủ nào vậy?
Delta-Một chăm chú lắng nghe. Trò đỏ đen này hay đây. Lúc nào chả có một đấu thủ đợi sẵn bên ngoài sới,
- Chúng ta có thể tin tưởng cô ta không?
- Cần phải theo dõi sát người này.
- Nếu có sự cố thì sao ạ?
Giọng người chỉ huy không chút do dự:
- Thì làm theo đúng phận sự của các anh.


Rachel Sexton đã bay theo hướng bắc được hơn một giờ đồng hồ.
Trong suốt hành trình, thay vì thấy quang cảnh của New Foundland, cô chỉ nhìn thấy duy nhất một thứ dưới cánh chiếc máy bay F14: nước.
Tại sao lại phải là nước nhỉ? Rachel nhăn nhó thầm hỏi. Hồi lên bảy, Rachel đã bị ngã nhào xuống hồ nước đóng băng trong khi chơi trượt băng. Bị làn nước giá buốt bao trùm, cô nghĩ mình chắc chắn sẽ phải chết. Nhưng rồi nhờ đôi cánh tay mạnh mẽ của mẹ cô, thân thể ướt mèm của Rachel đã được kéo lên bờ. Kể từ sự kiện hãi hùng đó, Rachel luôn phải đấu tranh với cảm giác sợ hãi vô cớ - sợ những vùng nước rộng, đặc biệt là nước lạnh. Hôm nay, khi trong tầm mắt không có gì ngoài cực bắc tít tận cuối chân trời, nỗi sự ấy đang bủa vây cô.
Đến khi viên phi công kiểm tra lại vị trí của chiếc máy bay bằng liên lạc với sân bay Thule thì Rachel mới biết mình đã đi xa đến mức nào. Qua cả vòng chí tuyến rồi cơ ư? Biết sự thật, cô càng cảm thấy bất an hơn. Họ đưa mình đi đâu thế nhỉ? NASA đã tìm thấy cái gì?
Một lúc sau, trên mặt nước màu xanh xám bên dưới đã thấy có muôn vàn chấm trắng ảm đạm.
Lần duy nhất trong đời Rachel trông thấy núi băng là sáu năm trước, khi mẹ cô ra sức thuyết phục cô cùng bà tham gia chuyến thám hiểm Alaska. Rachel đã lựa chọn không biết bao nhiêu khu nghỉ mát trên đất liền, nhưng mẹ cô vẫn nhất mực không đổi ý. Bà nói: "Rachel, con yêu của mẹ, hai phần ba hành tinh này là nước, cho nên sớm hay muộn gì con sẽ phải tập đối mặt với nó". Bà Sexton vốn là một thiếu phụ kiên định của vùng New Engiand, thuộc kiểu người luôn muốn con cái họ lớn lên phải kiên cường và mạnh mẽ.
Chuyến thám hiểm ấy là dịp cuối cùng hai mẹ con được ở bên nhau.
Catherine Wenworth Sexton. Rachel chợt cảm thấy mình đơn côi biết mấy. Bao ký ức chợt ào ạt ùa về, như những cơn gió quất bên ngoài ca bin máy bay, như bao lần trước, lại một lần nữa kỷ niệm đay ắp trong tâm trí Rachel. Lần cuối cùng hai mẹ con cô nói chuyện với nhau là trên điện thoại. Sáng sớm ngày lễ Tạ ơn.
- Con xin lỗi mẹ, - cô gọi về từ sân bay O Hare tuyết phủ - con biết gia đình mình bao giờ cũng sum họp vào ngày lễ Tạ ơn, nhưng hôm nay chắc sẽ là lần đầu tiên không được như vậy.
Giọng mẹ cô đầy đau khổ:
- Mẹ mong được gặp con biết chừng nào. Rachel của mẹ.
- Con cũng thế mẹ ạ. Mẹ hãy tưởng tượng con phải ăn đồ ăn liền ở sân bay trong khi mẹ và bố đang thưởng thức món gà tây.
Mẹ cô lặng đi một lúc trên điện thoại.
- Rachel, mẹ định đợi con về nhà mới nói, nhưng cha con nói rằng ông ấy bận quá nên năm nay không về nghỉ ở nhà được. Ông ấy sẽ ở lại khách sạn của mình ở D.C, trong suốt kỳ nghỉ.
- Sao cơ? - Sự ngạc nhiên của Rachel ngay lập tức chuyển thành phẫn nộ. - Nhưng hôm nay là ngày lễ Tạ ơn, Thượng nghị viện có họp đâu! Bố chỉ cách nhà có hai giờ lái xe thôi mà. Bố phải về với mẹ mới đúng chứ!
- Mẹ biết. Nhưng ông ấy nói là mệt lắm nên không thể lái xe được ông ấy đã quyết định sẽ dành kỳ nghỉ để giải quyết những công việc tồn đọng.
Công việc ư? Rachel thấy nghi ngờ. Rất có thể là ngài Thượng nghị sĩ đang hú hí với người đàn bà nào đó. Sự không chung thuỷ của ông ta, dù kín đáo, vẫn kéo dài từ nhiều năm nay. Bà Sexton không phải là người không biết gì, nhưng tất cả những vụ tình ái của ông ta đều được sắp xếp với những chứng cứ ngoại phạm và thái độ phẫn nộ sâu sắc khi có ai đả động đến chuyện ông ta là người chồng không chung thuỷ. Cuối cùng, bà Sexton chẳng còn bỉết làm gì khác ngoài việc nhắm mắt làm ngơ và gắng chôn chặt nỗi đau của mình. Dù Rachel vẫn khuyến khích mẹ cô tiến hành thủ tục li dị, nhưng Katherin Wenworth Sexton là người đã nói là làm. Bà nói với Rachel: "Chỉ cái chết mới chia lìa được mẹ và ông ấy. Nhờ ông ấy mẹ mới có được con - cô con gái vô cùng kiều diễm - mẹ chịu ơn ông ấy. Sẽ có ngày ông ấy phải sám hối trước Đấng tối cao về điều đó".
Lúc ấy, tại sân bay, Rachel giận sôi lên.
- Nhưng thế thì mẹ sẽ phải cô đơn trong ngày lễ Tạ ơn!
Cô cảm thấy kinh tởm. Việc Thượng nghị sĩ bỏ bê gia đình trong ngày lễ Tạ ơn là một bước suy đồi so với sự tồi tệ trước đó của ông ta.
- Không sao. - Giọng mẹ cô buồn nhưng cương quyết. - Không thể để những đồ ăn này bị hỏng được. Mẹ sẽ lái xe đến nhà dì Ann. Năm nào dì ấy cũng mời nhà mình đến dự lễ Tạ ơn Mẹ gọi cho dì ấy ngay đây.
Rachel vẫn chẳng cảm thấy bớt áy náy được là bao.
- Thôi được. Con sẽ về nhà ngay lập tức đây. Con yêu mẹ lắm.
- Chúc con yêu bay an toàn.
Mười giờ rưỡi đêm hôm ấy, cuối cùng thì chiếc tắc xi cũng đưa Rachel ngoặt lên, con đường rải sỏi và tiến vào ngôi biệt thự sang trọng của nhà Sexton. Rachel biết ngay đã có chuyện chẳng lành.
Xe cảnh sát đỗ trên lối vào. Có cả xe hòm của báo chí. Cả ngôi nhà sáng trưng. Rachel lao vào nhà, lòng đau như xé.
Một nhân viên cảnh sát bang Virginia gặp cô ở ngưỡng cửa. Trông anh ta đầy vẻ hệ trọng. Nhưng chẳng cần anh ta phải nói gì hết. Rachel biết đã có một vụ tai nạn.
- Do mưa và băng tuyết nên tuyến đường 25 trở nên rất trơn. - Anh ta nói. - Xe của mẹ cô bị văng vào khe núi. Bà mất ngay tại chỗ do va đập mạnh.
Rachel thấy toàn thân tê dại. Cha cô đã về nhà ngay khi nhận được tin và giờ đang tổ chức cuộc họp báo nhỏ trong phòng khách.
Với vẻ mặt đau khổ, ông ta tuyên bố rằng phu nhân của mình đã gặp tai nạn trên đường về nhà sau khi cùng gia đình đi dự tiệc nhân ngày lễ.
Đứng ở một bên chái nhà, Rachel khóc ròng rã.
- Ước nguyện duy nhất của tôi là - nước mắt lưng tròng, cha cô tuyên bố với các nhà báo - là tôi có thể về nhà với bà ấy trong kỳ nghỉ này. Đáng ra tôi đã không bao giờ được để điều này xảy ra.
Đáng ra ông phải nghĩ được điều đó từ nhiều năm trước rồi kia.
Rachel khóc nức lên, và mỗi lúc một thêm căm ghét cha mình. Từ đó trở đi, Rachel sống tách biệt hẳn. Nhưng ngài Thượng nghị sĩ dường như chẳng nhận ra điều đó. Ông mải bận rộn biến cái chết của vợ mình thành một cơ hội để trở thành ứng cử viên Tổng thống của đảng. Những lá phiếu giành được nhờ sự cảm thông hoá ra không hề ít.
Tai ác thay, ba năm sau sự kiện ấy, dù ở cách rất xa, ngài Thượng nghị sĩ vẫn khiến cho con gái mình cảm thấy côi cút. Do chiến dịch tranh cử Tổng thống của cha cô, Rachel buộc phải gác lại giấc mơ tìm người đàn ông phù hợp và gây dựng mái ấm gia đình. Cô thà sống tách biệt hẳn khỏi xã hội còn hơn trở thành đối tượng săn đón của vô số những kẻ khát quyền lực đang săn lùng cơ hội trở thành vị hôn thê của cô con gái âu sầu của ngài Tổng thống tiềm năng.
Bên ngoài cửa sổ chiếc phản lực F14, bóng đêm đang từ từ dâng lên. Giờ đang là cuối mùa đông ở vùng cực - mùa của đêm đen.
Rachel nhận thấy chiếc phản lực đang bay vào vùng bóng đêm vĩnh cửu.
Chỉ vài phút sau, Mặt trời đã biến mất hẳn phía sau đường chân trời. Họ tiếp tục bay về phương Bắc, và mảnh trăng lưỡi liềm vằng vặc hiện ra, lơ lửng trên bầu trời Bắc cực lạnh giá. Tít bên dưới, là những con sóng bạc đầu mờ ảo, những tảng băng trôi trông như những viên kim cương được đính trên tấm lưới mắt cáo màu sẫm.
Cuối cùng thì Rachel cũng lờ mờ nhìn thấy đất liền. Nhưng nó rất khác những gì cô tưởng tượng. Xa xa dưới cánh máy bay là một dải núi tuyết phủ.
Núi Rachel băn khoăn tự hỏi.
- Phía bắc đảo Greenland có núi hay sao?
- Dĩ nhiên rồi. - Viên phi công trả lời, anh ta cũng có vẻ ngạc nhiên chẳng kém gì cô.
Khi chiếc F14 chúi đầu xuống đất, Rachel rơi vào cảm giác không trọng lượng vô cùng khó chịu. Dù hai tai gần như ù đặc, cô vẫn nghe thấy tiếng thiết bị điện tử kêu bíp bíp trong khoang lái. Rõ ràng là viên phi công đã bắt được liên lạc với thiết bị dẫn đường và đang làm theo chỉ dẫn từ mặt đất.
Xuống đến dưới độ cao ba ngàn foot, Rachel chăm chú nhìn quang cảnh mặt đất dưới ánh trăng. Dưới chân rặng núi là một dải đất phẳng khá rộng. Dải đất này kéo dài khoảng mười dặm về phía biển. ở tận cùng của dải đất bằng ấy là mỏm băng dựng đứng nhô ra biển.
Lần đầu tiên Rachel nhìn thấy kiểu địa hình này. Thật đặc biệt.
Lúc đầu cô tưởng mình bị ảo giác do ánh trăng. Rachel nhìn những mỏm tuyết, không dám tin vào mắt mình. Càng xuống thấp, cảnh vật càng hiện ra rõ ràng hơn.
Lạy Chúa, đây là đâu?
Dải đất bằng bên dưới có những đường sọc, như thế người ta đã dùng sơn màu bạc để vẽ trên tuyết ba đường sọc thật lớn.
Những vệt sáng lấp lánh này chạy song song với mỏm đá dọc theo bờ biến. Xuống đến độ cao năm trăm foot thì ảo giác ấy mới biến mất. Trong lòng ba con mương sâu với bề ngang rộng khoảng ba mươi mét, nước đóng băng. Chúng nằm vắt ngang dải đất bằng.
Những dải màu trắng giữa những dòng kênh ấy trông chẳng khác gì những con đê bằng tuyết.
Bay đến dải đất bằng đó, máy bay bắt đầu hạ độ cao và lắc.
Rachel nghe thấy tiếng phanh rít nhưng chẳng nhìn thấy đường băng nào cả. Trong khi viên phi công đang tập trung điều khiển máy bay, Rachel nhòm ra ngoài và trông thấy hai dải sáng lấp lánh hai bên dòng kênh băng trong cùng. Cô kinh hãi khi hiểu ra ý định của viên phi công.
- Chúng ta hạ cánh xuống băng à? - Cô hỏi.
Viên phi công không trả lời. Anh ta còn mải vật lộn với những cơn gió giật. Rachel thấy bụng dạ bị lộn tung lên khi chiếc máy bay giảm tốc độ và hướng về phía con kênh băng. Hai dải đê tuyết hiện ra hai bên thân máy bay, Rachel nín thở. Cô hiểu rằng chỉ một nhầm lẫn nhỏ trong con kênh hẹp này cũng có thể gây ra sự cố chết người.
Chiếc máy bay lắc lư hạ cánh xuống giữa hai dải đê bằng tuyết, và đột ngột ngừng rung lắc. Được dải đê chắn gió, nó tiếp đất êm ái.
Chiếc phi cơ chạy chậm dần. Rachel thở phào. Máy bay chạy thêm khoảng một trăm mét nữa và dừng hẳn ngay trước vệt sơn đỏ chói trên mặt băng.
Chẳng nhìn thấy gì ở bên phải ngoài bức tường tuyết dưới ánh trăng - sườn của con đê tuyết. Bên trái cũng y như vậy. Chỉ có thể nhìn qua cửa chắn gió ở phía trước… và thấy băng hà trải dài vô tận. Cảm tưởng như họ vừa hạ cánh xuống hành tinh chết. Trừ vệt sơn đỏ trên tuyết, không có bất kỳ dấu hiệu nào của sự sống.
Rồi Rachel nghe thấy từ đằng xa, một chiếc xe đang tiến lại.
Tiếng động cơ inh ỏi. Tiếng ồn mỗi lúc một to dần cho đến khi chiếc xe xuất hiện. Đó là chiếc máy kéo lớn có nhiều bánh đang đi dọc theo con mương về phía họ. Cao và trần trụi, chiếc xe chẳng khác gì một côn trùng phàm ăn to lớn với những cái chân quay trong truyện khoa học viễn tưởng. Ca bin được bố trí cách khá xa khung gầm xe. Rất nhiều đèn pha dưới gầm xe rọi sáng mặt đất.
Chiếc xe lắc mạnh rồi dừng lại ngay cạnh máy bay. Cửa ca bin mở ra, rồi một người bước xuống. Anh ta mặc bộ áo liền quần màu trắng phồng to tướng che kín từ đầu đến chân. Trông chẳng khác gì quả bóng.
Max điên sắp sửa gặp Pillsbury Dough rồi đây, Rachel thầm nghĩ, nhẹ nhõm nhận thấy có người sống ở mảnh đất này.
Anh ta ra hiệu cho viên phi công mở cửa sập.
Viên phi công làm theo.
Ngay khi cửa vừa mở, luồng gió buốt giá thốc vào trong ca bin. Rachel thấy lạnh thấu xương.
- Đóng cửa lại cho tôi nhờ.
Cô Sexton phải không ạ? - Người lái xe gọi với lên, giọng Mỹ. - Thay mặt cho NASA, xin chào đón cô.
Rachel run lập cập.
- Xin đa tạ.
Cô tháo mặt nạ, mũ bay và dây an toàn ra.
- Hãy bước xuống bậc thang bên hông máy bay. Cô có gì cần hỏi không ạ?
- Có đấy. -Rachel gào lên trả lời. - Tôi đang ở chỗ quái quỉ nào đây?



***Xem trang:
[1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15][16][17][18][19][20]
[21][22][23][24][25][26][27][28][29][30][31][32][33][34][35][36][37][38][39][40][41][42][43]

TOP WAP WORLDWIDE


mobiV trang ch

© GIAITRI102.TK
Thanks to XTGEM