Không bấm vùng phía trên kẻo mất tiền nhé!

Khu căn hộ Westbrooke toạ lạc ở số 2201 phố Đông, bắc Washington. Đây là một trong số hiếm hoi những địa chỉ không ai có thể nhầm được ở thủ đô. Gabrielle hối hả sải bước qua cánh cửa quay mạ kim loại và bước vào hành lang lát đá cẩm thạch có tiếng nước chảy róc rách.
Người gác cổng ngồi bên bàn có vẻ ngạc nhiên khi trông thấy cô.
- Cô Ashe đấy à? Tôi tưởng tối nay cô không tới.
- Tôi bị muộn một chút. - Gabrielle nhanh chóng ký tên vào sổ ra vào. Đồng hồ treo tường chỉ đúng 6 giờ 22 phút.
Người gác cổng gãi đầu:
- Ngài Thượng nghị sĩ đưa cho tôi một danh sách, nhưng không thấy tên cô.
Những người được việc nhất lại thường bị bỏ quên như thế đấy. Cô vội mỉm cười nhìn anh ta và sải bước đến thang máy.
Lúc này, người gác cổng có vẻ rất băn khoăn.
- Để tôi gọi lên trên đó.
- Cảm ơn anh. - Gabrielle nói, chân bước vào buồng thang máy và bấm nút. - Hôm nay ngài Thượng nghị sĩ ngắt điện thoại rồi còn đâu.
Lên đến tầng chín, Gabrielle ra khỏi thang máy và bước dọc hành lang lát đá sang trọng. Cuối hành lang, bên cánh cửa căn hộ của Sexton, cô trông thấy anh chàng vệ sĩ cao lớn đang ngồi trong sảnh. Có vẻ đang buồn chán. Gabrielle ngạc nhiên thấy anh chàng này hôm nay không được nghỉ, và anh ta còn ngạc nhiên hơn nhiều khi nhìn thấy cô. Thấy Gabrielle tiến lại, anh ta đứng phắt dậy.
- Tôi biết rồi. - Chưa đến nơi cô đã lên tiếng. - Tối hôm nay được dành cho việc riêng. Thượng nghị sĩ không muốn bị ai quấy rầy cả.
Anh chàng vệ sĩ gật đầu.
- Ông ấy đã lệnh cho tôi là không cho phép ai…
- Trường hợp này khẩn cấp lắm.
Anh ta đứng chắn cửa ra vào.
- Ông ấy đang có cuộc họp riêng.
- Thế à? - Gabrielle rút phong bì màu đỏ kẹp bên mạng sườn ra.
- Tôi vừa từ phòng bầu dục về. Và phải chuyển những thông tin này đến tận tay Thượng nghị sĩ. Bạn cũ thân đến mấy thì cũng có thể nói chuyện với nhau mà không có người ta vài phút. Nào, cho tôi vào.
Anh chàng vệ sĩ tỏ vẻ khuất phục khi nhìn thấy biểu tượng của Nhà Trắng in trên phong bì…
Đừng để tôi phải mở phong bì ra đấy, Gabrielle thầm nghĩ.
- Để phong bì đó lại, tôi sẽ chuyển vào cho ông ấy.
- Không thể được. Tôi được chỉ thị của Nhà Trắng là phải trực tiếp giao tận tay ông ấy. Nếu anh nhất định không chịu thì để ngày mai cả tôi và anh sẽ phải đi tìm việc ở chỗ khác đấy. Anh có hiểu không, hả?
Anh chàng vệ sĩ có vẻ đang cân nhắc tình hình một cách khó nhọc, và Gabrielle cảm giác hôm nay Thượng nghị sĩ chắc đã tỏ ra dứt khoát hơn hẳn mọi ngày về chuyện không tiếp khách. Cô quyết định tung ngón đòn cuối cùng. Chìa phong bì ra ngay trước mũi anh ta, cô hạ giọng gần như thì thào những từ mà cánh vệ sĩ ở thủ đô ghét nhất.
- Anh không hiểu tình hình đâu.
Vệ sĩ của các chính trị gia không bao giờ nắm bắt được tình hình, và họ ghét điều đó. Họ là những tên lính đánh thuê, đứng trong bóng tối, không bao giờ biết chắc nên nghiêm túc thi hành mệnh lệnh hay đánh liều mất việc khi phớt lờ những vấn đề sờ sờ trước mắt.
Người vệ sĩ nuốt khan, đưa mắt nhìn chiếc phong bì lần nữa.
- Thôi được nhưng tôi sẽ báo với ngài Thượng nghị sĩ là cô nằng nặc đòi vào.
Anh ta mở khoá, Gabrielle vào ngay đề phòng anh chàng đổi ý. Cô bước vào trong căn hộ, khẽ khàng khép cửa rồi khoá lại.
Giờ đây, đứng trong sảnh, Gabrielle có thể loáng thoáng nghe thấy tiếng người nói trong phòng của Thượng nghị sĩ - toàn giọng đàn ông. Buổi tối dành cho việc riêng hôm nay rõ ràng không giống với những buổi tối khác được đánh dấu tương tự trong lịch làm việc của ngài nghị sĩ.
Chậm rãi tiến về phía cuối sảnh, Gabrielle đi ngang qua một ngăn tủ không có nắp và trông thấy khoảng năm sáu chiếc áo khoác ngoài của đàn ông treo bên trong - toàn loại vải len và tuýt.
Trên sàn nhà có mấy cái ca táp. Rõ ràng là hôm nay ông ấy đang làm việc. Gabrielle suýt nữa đã bước thẳng qua nếu không bị một chiếc ca táp thu hút sự chú ý. Tấm biển đề tên gắn trên đó in nổi bật lô gô của một công ty: quả tên lửa màu đỏ tươi.
Cô dừng bước, quỳ xuống để đọc cho rõ:
TẬP ĐOÀN VŨ TRỤ MỸ.
Bối rối, cô xem những chiếc cặp khác.
CÔNG TY VŨ TRỤ BEAL, CÔNG TY VĨ MÔ, CÔNG TY TÊN LỬA ROTARY, CÔNG TY VŨ TRỤ CHÂU ÂU KISTLER.
Chất giọng thế thé của Marjorie Tench vẳng lại trong tâm trí Gabrielle. Cô có biết là ông Thượng nghị sĩ đang nhận những khoản hối lộ bất hợp pháp của các công ty vũ trụ tư nhân không?
Mạch Gabrielle đập liên hồi khi cô nhìn xuống cuối hành lang mờ tối dẫn vào phòng riêng của Thượng nghị sĩ. Trí não mách bảo cô nên lên tiếng để mọi người biết rằng cô đã ở đây, nhưng không hiểu sao đôi chân cứ lặng lẽ nhích lên từng bước một. Cô đến bên cánh cửa tối sẫm và im lìm đứng trong bóng tối, lắng nghe tiếng nói chuyện từ bên trong vọng ra.

55.
Trong khi Delta-Ba còn đang dừng lại để nhặt xác của Norah Mangor và gom chiếc xe trượt, hai người lính còn lại liền tăng tốc trượt xuôi dốc băng nhằm bám theo con mồi.
Chân họ đi giày trượt hiệu Elektro Tread. Được chế tạo theo mô hình thanh trượt có động cơ Fast Trax, đây là loại giày trượt đặc dụng cho vùng băng tuyết có gắn xích loại nhỏ - loại xích của những chiếc xe chạy vùng băng tuyết vẫn được lắp bao quanh bánh xe. Tốc độ được điều chỉnh bằng cách ép ngón tay trỏ và tay cái vào nhau, tác động lên hai đĩa tốc độ được gắn trong găng tay bên phải. Một loại pin bằng gel lỏng được đúc trong giày, bao quanh chân, vừa làm tăng độ cách ly lại vừa cho phép người sử dụng có thể trượt cách rất êm. Đặc biệt là lượng điện sản ra bởi trọng lực của chân và bởi tốc độ quay của chiếc xích khi người trượt di chuyển xuôi dốc sẽ được tích lại trong pin để dùng cho lần leo dốc tiếp theo.
Khom người, giữ thẳng hướng với gió katabatic, Delta-Một vừa di chuyển vừa quan sát địa thế sông băng. Cặp kính nhìn xuyên bóng tối mà anh đang đeo khác rất xa loại kính dùng ban đêm Patriot của cánh lính thuỷ quân lục chiến. Anh đang quan sát địa vật bằng chiếc kính không gọng có những thấu kính sáu phần tử cỡ 40 x 90 mm, thấu kính phóng đại ba phần tử Doubler. Cảnh vật bên ngoài hiện lên với tông màu lam đục lạnh lẽo thay vì màu xanh lá cây như thường lệ - tông màu này đã được chọn lựa kỹ càng cho những địa hình có độ phản chiếu ánh sáng cao như vùng Bắc Cực này.
Đến gần ụ tuyết thứ nhất, kính xuyên đêm của Delta-Một cho thấy hình ảnh vài vệt xước mới nguyên trên mặt băng chạy dọc lên đỉnh ụ tuyết như những mũi tên bằng nê ông trong bóng đêm. Rõ ràng là ba kẻ trốn chạy kia đã không nghĩ đến chuyện tháo bỏ chiếc dù tạm thời của họ, hoặc là đã không thể làm được việc đó. Nếu vượt qua ụ tuyết thứ ba mà họ vẫn chưa tháo được dù ra thì chắc chắn lúc này họ đã ở đâu đó ngoài đại dương rồi. Delta-Một biết những bộ quần áo bảo hộ họ mặc trên người có thể kéo dài cuộc sống của họ trong môi trường nước, nhưng dòng hải lưu chảy xiết sẽ cuốn họ ra ngoài đại dương. Chết đuối là không thể tránh khỏi.
Dù rất tự tin, Delta-Một đã được huấn luyện thói quen không dựa vào suy đoán của mình. Anh phải nhìn thấy xác chết. Cúi thấp người xuống, anh ấn chặt ngón trỏ và ngón cái phải vào nhau, trượt lên con dốc đầu tiên.
Michael Tolland nằm im không nhúc nhích, mình mẩy đau ê ẩm.
Dù bị quật lên quật xuống, ông tin là mình chưa bị gãy cái xương nào. Dĩ nhiên là nhờ có bộ quần áo Mark IX này ông mới tránh được những vết thương chí tử. Mở to mắt, phải mất một lúc ông mới tập trung được suy nghĩ của mình. Mọi thứ ở chỗ này có vẻ êm đềm hơn… yên tĩnh hơn Gió vẫn hú, nhưng mãnh lực thì kém hơn nhiều.
Chẳng phải cả nhóm đã lao xuống vực rồi hay sao?
Cố thu hết tinh lực, ông nhận thấy mình đang nằm trên mặt băng, mình vắt ngang qua người Rachel, gần như tạo thành một góc vuông, những chiếc khoá móc ở thắt lưng của cả hai người đều bị vặn xoắn. Cảm nhận được hơi thở của Rachel ngay bên dưới, nhưng ông không thể nhìn thấy mặt cô. Ông lăn người sang một bên, nhưng các cơ bắp không chịu nhúc nhích.
- Rachel này… - Ông không biết chắc mình có nói được thành tiếng hay không nữa.
Tolland nhớ lại những giây phút cuối cùng trong cuộc trượt băng chí tử của nhóm - quả khinh khí cầu kéo họ lên dốc, rồi dây néo đứt, cả ba rơi thẳng xuống con dốc thoải bên kia ụ tuyết, rồi trượt qua ụ tuyết cuối cùng, trượt tiếp đến mép sông băng - rồi không còn thấy mép băng đâu nữa. Rachel và Tolland rơi tự do, nhưng cú ngã của họ ngắn lạ thường. Thay vì rơi thẳng xuống biển, họ chỉ rơi xuống khoảng ba mét và ngã xuống một phiến băng thấp hơn, rồi do có trọng lượng của Corky làm lực cản nên mới dừng lại được.
Lúc này, Tolland cố ngóc cổ lên để nhìn mặt biển. Cách đó không xa là một vách băng dựng đứng - điểm tận cùng của phiến băng, ông nghe thấy tiếng ào ạt của biển từ dưới vọng lên. Quay lại sau lưng, ông căng mắt nhìn trong bóng đêm, cố thu nhận vào đồng tử hình ảnh cửa dòng sông băng. Mắt ông bắt gặp hình ảnh một bức tường băng dựng đứng cách họ khoảng sáu, bảy mét. Đến lúc này thì Tolland nhận thức được những gì vừa xảy ra. Họ vừa trượt từ phiến băng chính xuống một mặt băng thấp hơn. Tảng băng này rất phẳng, to bằng sân chơi hockey, đã sụp một phần - và có thể trượt xuống biển khơi bất cứ lúc nào.
Sự ra đời của những núi băng trôi, Tolland thầm nghĩ và quan sát mặt băng chênh vênh trước mắt. Đó là một phiến băng lớn và bằng phẳng hình tứ giác gắn vào sông băng như cái ban công khổng lồ, ba bề giáp với biển. Sau lưng họ, một cạnh của tảng băng gắn với sông băng, và Tolland thấy sự gắn kết này không hề bền vững chút nào. Ranh giới giữa tảng băng này với phiến băng Milne là một vết nứt rộng hoác với bề ngang khoảng hơn một mét. Trọng lực sắp sửa chiến thắng trong cuộc chơi này.
Nhưng vết nứt kinh hãi đó vẫn chẳng là gì so với cảm giác hãi hùng khi thấy thân thể của Corky Marlinson bất động nằm co quắp trên băng. Corky nằm cách ông mười mét, vẫn được nối với ông bằng sợi dây như ban nãy.
Tolland gượng đứng dậy, nhưng người ông vẫn còn bị buộc chặt vào Rachel. Xoay người, ông gắng sức tháo những chiếc móc gài đang buộc chặt thắt lưng của họ vào nhau.
Rachel nhỏm người, cố ngồi dậy, trông rất yếu, giọng ngơ ngác:
- Chúng ta không rơi xuống à?
- Chúng ta ngã xuống một khối băng thấp hơn. - Tolland nói, cuối cùng thì cũng tháo được những cái móc gài ra. - Phải xem xem Corky thế nào.
Nhức nhối khắp mình mẩy, Tolland cố đứng dậy, nhưng đôi chân quá yếu ớt ông túm sợi dây và ra sức kéo. Corky bắt đầu trượt về phía họ. Kéo được khoảng mươi nhịp thì Corky đã nằm trên băng, cách họ khoảng một mét.
Trông Corky Marlinson thật thảm hại. Kính bảo hộ, đã văng mất, má rách toạc, mũi bê bết máu. Tolland sợ rằng nhà cổ sinh vật này đã chết, nhưng ngay lập tức ông thấy yên dạ khi ông ta lăn người và trợn ừng mắt giận dữ.
- Lạy Chúa tôi. - Corky lắp bắp. - Thế này là thế nào?
Tolland thấy nhẹ cả người.
Lúc này Rachel đã ngồi được dậy, mặt nhăn nhó vì đau. Cô nhìn quanh.
- Chúng ta phải thoát ra khỏi chỗ này. Trông khối băng này như sắp rơi xuống đến nơi…
Tolland hoàn toàn đồng ý. Nhưng vấn để là bằng cách nào.
Họ chẳng có thời gian mà lựa chọn giải pháp: Trên đầu họ, trên phiến băng cao, nghe có tiếng vo vo. Tolland ngẩng phắt lên, nhìn thấy hai bóng áo trắng nhẹ nhàng trượt đến sát mép băng rồi cùng dừng lại. Họ đứng đó một lúc, nhìn ba con mồi thảm bại bên dưới với ánh mắt của những đấu thủ cờ vua hau háu nhìn đối phương trước khi tung đòn tối hậu.
Delta-Một ngạc nhiên thấy ba kẻ trốn chạy kia vẫn còn sống. Tuy nhiên, anh biết rằng đây chỉ là trong điều kiện tạm thời. Họ đã ngã xuống một khối băng sắp sửa tách ra rồi rơi xuống biển. Đội của anh có thể khống chế và giết những người này theo cùng một kiểu với người đàn bà kia, nhưng một giải pháp sạch sẽ hơn nhiều vừa nảy ra trong óc anh. Bằng cách đó thì xác của họ sẽ không bao giờ được tìm thấy. Quan sát khối băng thấp đó, Delta-Một nhận thấy một vết nứt rộng đang há ra như một cái nêm lớn được chêm vào giữa phiến băng chính và khối băng thấp. Tảng băng lớn mà ba kẻ kia vừa rơi xuống trông rất nguy hiểm… Nó có thể rơi xuống đại dương bất kỳ lúc nào.
Thế thì sao không rơi luôn lúc này…
Trên phiến băng vĩnh cửu Milne, chốc chốc lại có tiếng nổ đinh tai nhức óc xé tan màn đêm thanh vắng - tiếng những khối băng lớn nứt tách ra khỏi sông băng và rơi xuống biển. Ai mà để ý đến những tiếng nổ này cơ chứ?
Cảm thấy lượng adrelanine trong máu lại tăng mạnh như những lần chuẩn bị ra tay hạ sát con mồi, Delta-Một thò tay vào túi dụng cụ và lấy ra một vật nặng hình quả chanh. Được chế tạo riêng cho các đội đặc nhiệm, vật này có tên là "Vụ nổ sáng loà" - loại lựu đạn gây chấn động mạnh "không sát thương" nhằm tạm thời đánh lạc hướng đối phương bằng cách tạo ra một luồng sáng chói loà đi kèm với những sóng chấn động đinh tai nhức óc. Tuy nhiên, đêm nay, Delta-Một biết chắc rằng "Vụ nổ chói loà" sẽ giết chết đối phương.
Anh đứng sát mép vực và băn khoăn không hiểu vết nứt kia sâu đến đâu. Bảy mét ư? Điều đó không quan trọng. Vết nứt nông hay sâu thì kế hoạch của anh vẫn cứ thành công.
Với sự điềm tĩnh có được sau vô số lần ra tay hạ sát đối tượng, Delta-Một chỉnh kim đồng hồ hẹn giờ đến mốc mười giây trên quả lựu đạn kéo chốt, rồi ném vào trong khe nứt. Quả lựu đạn rơi vào khe nứt tối sẫm rồi biến mất.
Sau đó. Delta-Một và đồng đội của anh lui về tận ụ tuyết và đợi. Sắp có một cảnh rất đáng xem. Dù tâm trí rối bời.
Rachel Sexton biết rất rõ hai kẻ kia vừa ném vật gì xuống khe nứt. Không biết Tolland cũng biết vật đó hay chỉ nhìn thấy ánh mắt sợ hãi của cô mà ông tái mặt, hoảng hốt nhìn tảng băng lớn dưới chân họ, rõ ràng đã nhận ra tình thế tuyệt vọng của cả nhóm.
Giống như ánh chớp loé lên từ giữa đám mây trong đêm giông bão, một luồng sáng chới loé lên từ sâu trong lớp băng dưới chân Rachel. Những tia sáng trắng kỳ lạ toả ra tứ phía. Trong phạm vi một trăm mét quanh họ, con sông băng chợt sáng loà. Tiếp đến là cơn chấn động. Không phải thứ tiếng nổ ì ầm của động đất mà là luồng sức mạnh khiến người ta váng óc, buốt ruột. Đợt sóng chấn động từ sâu trong tảng băng ấy lan truyền khắp thân thể Rachel.
Ngay lập tức, như thể có ai vừa chêm một cái nêm lớn vào giữa sơng băng và tảng băng lớn nơi họ đang ngồi, những tiếng nứt gãy hãi hùng vang lên. Rachel và Tolland nhìn nhau khiếp sợ. Corky kêu thét lên.
Đáy khối băng vỡ toác ra.
Trong một tích tắc, phiến băng nặng ngàn cân rơi xuống, Rachel thấy mình trong trạng thái không trọng lượng. Rồi sau đó, cả ba người rơi tõm xuống mặt biển lạnh giá cùng với khối băng.


Băng cọ vào băng nghe lộng óc, khối băng khổng lồ từ phiến băng Milne đâm thẳng xuống biển, làm toé lên những cột nước lớn. Đập mạnh vào mặt nước, khối băng giảm tốc độ, cơ thể đang trong trạng thái không trọng lượng của Rachel bị đập mạnh vào mặt băng. Tolland và Corky cũng rơi xuống ngay gần đó.
Theo đà, khối băng chìm sâu xuống nước. Rachel thấy trong mắt mình mặt biển ngầu bọt dâng ngược lên, giống như người ưa mạo hiểm buộc dây vào chân để nhảy từ trên cầu xuống, nhưng sợi dây lại quá dài. Dâng lên…, dâng lên nữa… và thế là… Cơn ác mộng thuở nhỏ bỗng chốc hiện ra. Băng tuyết…, nước…, bóng tối.
Kinh hoàng tột độ.
Mặt trên của khối băng bị nhấn chìm xuống dưới mực nước, và những luồng nước lạnh giá của Bắc Băng Dương chảy ùa vào từ mọi phía. Nước biển táp mạnh vào cơ thể Rachel, rồi bủa vây cô tứ phía. Vùng da mặt không được bộ quần áo bảo hộ che chở rát như bị bỏng. Khối băng tiếp tục chìm xuống thêm nữa, Rachel cố ngoi lên mặt nước, lớp đệm gel lúc này như một chiếc phao.
Nước mặn xộc vào mồm, nhưng giờ cô đã nổi được trên mặt nước.
Hai người kia cũng đang lóp ngóp quanh cô, sợi dây vẫn buộc họ vào nhau. Ngay khi Rachel vừa nổi hẳn lên trên mặt nước thì Tolland đã hét lớn.
- Nó lại nổi lên đấy!
Ông chưa dứt lời, Rachel đã cảm thấy những luồng nước rất mạnh đẩy từ dưới lên. Như đầu máy xe lửa khổng lồ giảm tốc độ rồi đổi hướng, khối băng lớn đã giảm hẳn tốc độ trong lòng nước, lúc này đang nổi dần lên ngay dưới chân họ. Cách mặt biển vài mét, tiếng ì oạp, ầm ì vọng lên. Khối băng khổng lồ đang trồi lên.
Nó trồi lên rất nhanh, như lao lên từ bóng đêm. Rachel bị nâng bổng lên. Nước xáo động mạnh, mặt trên của khối băng đã chạm người cô. Rachel chới với, cố hết sức giữ thăng bằng, khối băng tròng trành trồi dần lên, đẩy Rachel lên, cùng cả ngàn ga-lông nước biển. Vừa trồi lên, khối băng vừa lắc lư, tròng trành, như thể đang tìm xem tâm trọng lực của nó ở điểm nào. Rachel loạng choạng đứng trên mặt băng rộng mênh mông, nước cao đến ngang bụng. Khi nước bắt đầu rút khỏi mặt băng, dòng chảy xiết cuốn phăng cô ra tận ngoài rìa. Trượt trong tư thế nằm sấp, cô thấy mép tảng băng đang đến tiến sát vào người.
- Cố lên! Giọng nói của mẹ cô vang lên y như thuở nào, lúc cô vẫn còn bét đang thì thụp trong cái hồ đóng băng. Cố lên, đừng để bị chìm!
Bị giật mạnh ngang thắt lưng, chút không khí cuối cùng còn lại trong hai lá phổi của Rachel cạn kiệt. Còn cách mép phiến băng vài mét, cô quẫy mạnh người và dừng lại được. Cách đó khoảng mười mét, Corky cũng vừa dừng lại như cô, thân thể nát nhừ. Mỗi người bị cuốn khỏi mặt băng theo một hướng khác nhau, và nhờ có lực đà của ông mà cô dừng lại được. Nước rút đi rất nhanh, và một bóng đen khác xuất hiện ngay gần Corky. Bò lồm cồm, tay bám chặt, sợi dây buộc vào thắt lưng Corky, miệng nôn thốc ra toàn nước biển.
Michael Tolland.
Luồng nước cuối cùng đã thoát xuống khỏi mặt phiến băng, Rachel kinh hãi nằm bất động, nghe những âm thanh của biển. Sau đó cảm thấy băng giá buốt đến tận cổ, cô nhổm người lên. Tảng băng khổng lồ vẫn đang lắc qua lắc lại như viên nước đá khổng lồ trong cốc. Đau đớn, cuồng loạn, cô bò về phía hai người kia.
Trên cao, trên đỉnh phiến băng, Delta-Một dùng kính nhìn xuyên đêm để quan sát nước biển cuộn xoáy quanh tảng băng trôi mới nhất của Bắc Băng Dương. Không nhìn thấy người nào trong nước, nhưng anh không hề ngạc nhiên. Nước biển tối sẫm. Còn các nạn nhân của anh thì mặc quần áo và đội mũ màu đen.
Căng mắt, anh cố nhìn rõ khối băng lớn đang nổi lềnh bềnh. Rất nhanh, nó đang trôi ra xa theo luồng hải lưu thềm lục địa.
Đã định chuyển hướng quan sát xuống mặt biển, anh chợt trông thấy ba đốm màu đen trên mặt băng. Xác của họ đó sao? Delta-Một căng mắt nhìn.
- Cậu có thấy gì không? - Delta-Hai hỏi.
Delta-Một không nói gì, tay điều chỉnh kính phóng đại. Trong ánh sáng mờ ảo hắt lên từ mặt băng, anh kinh ngạc trông thấy ba người nằm bất động. Không thể biết họ còn sống hay đã chết. Và cũng không cần phải biết. Nếu còn sống thì vài giờ nữa họ sẽ chết, dù mặc trên người bộ quần áo vi khí hậu kia; cả ba đều bị ướt, trời lại sắp nổi giông bão, và họ đang trôi dạt ra vùng biển đáng sợ nhất trên trái đất. Không một ai có thể tìm thấy xác của họ.
- Chỉ có vài bóng đen thôi. - Delta-Một quay người đáp. - Quay về căn cứ, nào!
57.
Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton đặt ly rượu Courvoisier trên bệ lò sưởi trong căn hộ của ông tại khu chung cư Westbrooke, vừa cho than vào lò vừa trầm ngâm suy nghĩ. Sáu người đàn ông cùng ở trong phòng với ông đều đang im lặng, chờ đợi Những câu chuyện phiếm đều đã kết thúc, giờ là lúc Thượng nghị sĩ phải tung ra khẩu hiệu quảng cáo cho bản thân mình. Họ biết thế. Ông cũng biết thế.
Làm chính trị cũng giống như đi chào hàng.
Cần phải gây dựng lòng tin. Cho họ thấy là mình hiểu vấn đề của họ.
- Chắc các vị cũng biết, - ông quay về phía họ và nói, mấy tháng nay tôi đã gặp rất nhiều người trong tình cảnh giống như các vị.
Ông mỉm cười, ngồi xuống cùng với họ.
- Các vị là những người duy nhất mà tôi mời đến nhà riêng. Các vị đều là những người xuất chúng, vì thế tôi lấy làm vinh hạnh được làm quen.
Sexton khoanh tay trước ngực, đưa mắt nhìn khắp phòng, nhìn thẳng vào mắt từng vị khách một. Sau đó, ông tập trung vào đối tượng đầu tiên - người đàn ông dáng bệ vệ đội mũ cao bồi.
- Công ty Vũ trụ Houston, - Ông nói - tôi rất mừng vì ông đã đến.
Ông già Texas đó càu nhàu:
- Tôi ghét cái thành phố này.
- Tôi không trách ông về điều đó. Thành phố này đã đối xử với ông một cách bất công.
Ông già đội mũ đó chằm chằm nhìn Sexton nhưng không nói gì.
- Cách đây 12 năm, - Sexton bắt đầu nói, - Ông đã đưa ra một đề nghị đối với Chính phủ. Ông muốn xây cho họ một sân bay vũ trụ với mức giá chỉ năm triệu đô la.
Đúng thế. Tôi vẫn còn giữ bản kế hoạch chi tiết đây.
- Ấy thế nhưng NASA đã thuyết phục được Chính phủ rằng sân sân bay vũ trụ của Hoa Kỳ phải là một dự án của NASA.
- Đúng thế. Họ bắt tay xây dựng sân bay đó cách đây gần chục năm.
- Một thập niên. Và không những sân bay vũ trụ đó chưa thể đi vào hoạt động toàn bộ, mà nó đã ngốn mất số tiền nhiều gấp 20 lần mức giá ông đưa ra. Là người dân đóng thuế, tôi phát sợ.
Tiếng xì xào tán thưởng nổi lên trong phòng. Sexton lần lượt nhìn thẳng vào mắt từng vị khách.
- Tôi cũng biết rằng, - ngài Thượng nghị sĩ nói tiếp. - một số công ty của các vị đây đã đưa ra giá năm mươi triệu đô la cho một lần phóng vệ tinh nhân tạo lên quỹ đạo.
Một số người gật đầu.
- Ấy thế nhưng NASA đã nẫng tay trên của quý vị bằng cách chào mức giá có ba mươi tám triệu đô một lần phóng…, mặc dù giá thật của mỗi lần phóng lên tới 150 triệu!
- Bằng cách đó họ đã ngăn cản chúng tôi tiến vào vũ trụ. - Một người lên tiếng. - Các công ty tư nhân không thể cạnh tranh nổi khi họ chấp nhận mức giá lỗ tới bốn trăm phần trăm, nhưng vẫn có thể tiếp tục kinh doanh.
- Các vị cũng không cần phải cạnh tranh theo kiểu đó.
Tất cả đều gật gù.
Lúc này Sexton quay sang nhà kinh doanh dáng khắc khổ bên cạnh mình, ông đã đọc tài liệu về ông ta một cách rất say sưa.
Giống đa số những doanh nghiệp đang tài trợ cho Sexton, nhà quân sự này vì ngán ngẩm mức lương ba cọc ba đồng và tệ quan liêu của Chính phủ nên đã từ bỏ sự nghiệp quân sự để kinh doanh trong lĩnh vực vũ trụ.
- Công ty Kistler, - Sexton lắc đầu buồn bã và nói - công ty của các vị đã thiết kế và chế tạo những tên lửa có khả năng vận chuyến hàng hoá lên vũ trụ với giá chỉ hai ngàn đô la một pound, so với mức giá mười ngàn đô la của NASA. - Ông ngừng một lát để lời nói có thêm trọng lượng. - Ấy thế nhưng vẫn không tìm được khách hàng nào cả.
Làm sao mà tôi có nổi khách hàng. - Ông ta đáp. - Tuần trước NASA vừa ăn chặn của tôi bằng cách chào giá với Motorola có tám trăm mười hai đô la để phóng một vệ tinh viễn thông. Trên thực tế Chính phủ đã làm vụ đó với mức lỗ lên tới chín trăm phần trăm!
Sexton gật đầu. Những người đóng thuế đang phải nai lưng ra mà bao cấp cho một tổ chức có hiệu suất thấp bằng một phần mười các đối thủ cạnh tranh của nó.
- Thật đau lòng. - Ông thấp giọng nói - rằng NASA đang cố sức kìm hãm sự cạnh tranh trong lĩnh vực vũ trụ. Họ hất cảng các công ty tư nhân ra bằng cách cung cấp dịch vụ với mức giá thấp hơn giá thị trường.
- Đó chính là trò Wal-Mart trong vũ trụ, chứ còn gì nữa. - Người đàn ông Texas nói.
Sự giống nhau đáng ghét, Sextơn thầm nghĩ. Mình phải nhớ 1ấy điều này. Wal-Mart từng khét tiếng về chiến thuật thâm nhập thị trường mới bằng cách bán dưới giá, và tiêu diệt hết các doanh nghiệp địa phương.
- Tôi thấy quá mệt mỏi, - người đàn ông Texas lại nói tiếp - vì cứ phải trả hết tỉ này đến tỉ khác tiền thuế để Chính phủ có đủ tiền nẫng tay trên các khách hàng của tôi!
- Tôi biết, - Sexton nói - và rất thông cảm với ông.
- Chính vì không được nhận tài trợ nên Rotary Rocket đang chết dần. - Người đàn ông ăn mặc rất chỉnh tề, nói. - Luật cấm tài trợ chẳng qua là bộ luật giết người!
- Tôi hoàn toàn tán thành. - Sexton đã từng vô cùng ngạc nhiên khi biết rằng NASA cũng đã bảo vệ sự độc quyền của họ bằng cách vận động Chính phủ thông qua bộ luật cấm dùng các phương tiện vận tải vũ trụ cho mục đích quảng cáo. Bộ luật đó cấm các công ty tư nhân nhận tiền từ các nhà tài trợ cũng như các hợp đồng quảng cáo logo - giống như cách các tay đua xe chuyên nghiệp vẫn thường làm - các phương tiện vận tải trên vũ trụ chỉ được phép có chữ U.S.A, và tên công ty chế tạo. Ở một quốc gia mà doanh thu từ quảng cáo lên tới 185 tỉ đô la mỗi năm, các công ty vũ trụ tư nhân không thu nổi một xu từ lĩnh vực này.
- Đó là hành động cướp bóc! - Một người lên tiếng. - Tôi dự định duy trì hoạt động của công ty cho đến tháng năm, khi chúng tôi có thể phóng thử mô hình tên lửa du lịch đầu tiên của cả nước. Và hi vọng nhận được rất nhiều tiền từ quảng cáo. Nike đã đề nghị tài trợ cho chứng tôi những bảy triệu đô la để hình chiếc giày của họ kèm theo khẩu hiệu "Hãy xốc tới! - được in trên vỏ quả tên lửa đó.
Pepsi đưa ra số tiền nhiều gấp đôi như thế cho dòng chữ "Pepsi: sự lựa chọn của tương lai". Nhưng theo luật Liên bang, nếu in hình quảng cáo thì quả tên lửa đó bị cấm phóng lên!
- Đúng thế! - Thượng nghị sĩ Sexton nói. - Và nếu đắc cử thì tôi sẽ tìm cách huỷ bỏ điều luật cấm tài trợ đó. Tôi xin hứa như vậy. Từng inch trên mặt đất đều được tận dụng để quảng cáo và vũ trụ cũng nên như thế.
Lúc này Sexton đưa mắt nhìn thính giả của mình, nhìn sâu vào mắt từng người một, nói một cách trang trọng. - Tuy nhiên, phải nói rằng trở ngại chính trong công cuộc tư hữu hoá NASA không phải là các đạo luật mà chính là hình ảnh của nó trong lòng công chúng.
Hầu hết dân Mỹ vẫn giữ trong lòng hình ảnh đầy thi vị và đẹp đẽ về chương trình vũ trụ của Hoa Kỳ. Họ vẫn tin rằng NASA là một bộ phận cần thiết của Chính phủ.



***Xem trang:
[1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15][16][17][18][19][20]
[21][22][23][24][25][26][27][28][29][30][31][32][33][34][35][36][37][38][39][40][41][42][43]

TOP WAP WORLDWIDE


mobiV trang ch

© GIAITRI102.TK
Thanks to XTGEM

Old school Swatch Watches