Không bấm vùng phía trên kẻo mất tiền nhé!

Anh ta nhún vai:
- Phải đến mấy chục năm nay chưa có lấy một lần.
Tolland quay sang Rachel:
- Thấy chưa, mấy chục năm rồi. Lo gì!
- Nhưng mà mới tháng trước, có mấy tay lặn tự do bị…
- Này! - Rachel lên tiếng - Anh nói là mấy chục năm chưa cứu người nào cơ mà!
- Đúng thế! - Anh ta đáp. - Cứu sống. Thường là chúng tôi đến quá muộn. Giống cá này tấn công nhanh lắm.
101.
Từ trên cao, họ thấy bóng dáng tàu Goya lung linh phía chân trời.
Cách nửa dặm, Tolland nhận ra ngay những bóng đèn mà Xavia đã bật trên boong. Nhìn những ngọn đèn, ông chợt thấy mình giống lữ khách mệt mỏi vừa nhìn thấy mái nhà thân yêu hiện lên phía cuối đường.
- Tôi tưởng chỉ có một người trực trên tàu cơ mà? - Rachel ngạc nhiên thấy nhiều đèn sáng đến vậy.
- Chẳng lẽ những lúc ở nhà một mình thì cô không bật đèn sao?
- Một bóng thôi, không phải toàn bộ căn nhà như thế kia.
Tolland mỉm cười. Dù cố tỏ ra vui vẻ, Rachel không giấu nổi cảm giác bồn chồn lo lắng. Ông muốn đặt bàn tay vai cô gái để nói đôi lời an ủi, nhưng chẳng biết nói gì vào lúc này.
- Đèn bật lên thế kia là để cho an toàn. Để làm ra vẻ vẫn có rất nhiều người trên tàu.
Corky cười khùng khục:
- Các anh sợ cướp biển à?
- Không. Nguy cơ lớn nhất lại chính là những kể khờ không biết đường mà dùng radar. Cách tốt nhất để không bị đâm là để cho ai cũng phải thấy mình.
Corky liếc nhìn con tàu chan hoà ánh sáng:
- Nhìn thấy à? Trông như thể các anh sắp mở vũ hội hoá trang nhân dịp năm mới thì có.
- Dĩ nhiên là tiền điện thì đã có đài NBC chi trả.
Chiếc trực thăng của đội cứu hộ bờ biển nghiêng cánh và lượn vòng quanh con tàu. Người phi công bắt đầu cho máy bay tiếp cận sân bay trực thăng trên nóc tàu. Từ trên cao, Tolland thấy rõ những thanh giằng của con tàu đang phải chịu áp lực rất lớn của dòng hải lưu.
Được thả neo từ phía mũi - con tàu Goya như đang đâm thẳng vào dòng nước xoáy, những dây xích để neo tàu bị kéo căng, như thể một quái vật biển đang kéo căng xiềng xích muốn vùng thoát ra ngoài…
- Con tàu này đẹp gớm. - Người phi công vừa nói vừa cười.
Tolland biết ngay anh ta đang nói mỉa. Tàu Goya trông rất xấu. Xấu không chịu nổi - theo cách nói của một biên tập viên truyền hình. Nó là một trong mười bảy chiếc tàu duy nhất hiệu SWATH, con tàu hai thân vùng ngấn nước hẹp này trông không đẹp mắt chút nào.
Về cơ bản, con tàu là một khối kết cấu nằm ngang nổi bồng bềnh trên những thanh giằng rất lớn gắn với bốn xà lan. Nhìn từ xa, nó giống như giàn khoan loại thấp. Nhìn gần thì nó giống như cái xà lan lớn gắn trên những cây cột khổng lồ. Khu ở của thuỷ thủ đoàn, các phòng nghiên cứu cũng như khoang điều khiển được xếp thành dãy tít trên cao, khiến người ta liên tưởng đến đống hổ lốn những, nhà cửa, phòng cao ốc bị chất chồng trên cái bàn cà phê bé nhỏ.
Dù trông không vừa mắt chút nào, con tàu Goya có ưu điểm là vùng ngấn nước rất hẹp, do đó ít tròng trành hơn. Mặt nền được treo rất thăng bằng cho phép họ dễ dàng quay phim và thao tác trong phòng thí nghiệm, và ít người bị say sóng hơn.
Dù đài NBC đã đề nghị mua cho ông con tàu mới, Tolland vẫn từ chối. Dù rằng hiện nạy có những con tàu mới có độ ổn định cao hơn, nhưng Goya đã là nhà của ông từ hơn chục năm nay - trên chính con tàu này, ông đã chiến đấu với nỗi cô đơn trống trải sau khi Celia ra đi mãi mãi. Thỉnh thoảng vẫn có đêm ông như nghe thấy tiếng nàng trên boong tàu lộng gió. Chừng nào những tiếng gọi ấy không còn vang lên nữa thì ông sẽ chuyển sang tàu mới.
Còn hiện tại thì chưa.
Cuối cùng thì chiếc trực thăng cũng hạ cánh xuống boong tàu Goya.
Rachel Sexton thở phào. Tin tốt là cô không còn bay qua đại dương nữa. Tin xấu là giờ đây, cô đang đứng trên mặt biển. Rachel cố giữ cho hai chân không run lên khi cô bước lên boong và nhìn quang cảnh xung quanh. Boong tàu chật chội kỳ lạ, đã thế chiếc máy bay lại choán hẳn phần đuôi tàu.
Dõi mắt về phía mũi tàu, Rachel chăm chú quan sát cấu trúc xấu xí mất cân đối của con tàu. Tolland đứng sát bên cô.
- Tôi biết, - ông nói to để át tiếng dòng nước ào ào bên dưới - Khi lên tivi, cái boong này có vẻ rộng hơn.
Rachel gật đầu.
- Và cũng có vẻ ít tròng trành hơn.
- Đây là một trong những con tàu an toàn nhất. Thật đấy.
Tolland đặt tay lên vai Rachel và dẫn cô đi dọc boong tàu.
Ông không ngờ hơi ấm từ bàn tay mình lại có thể khiến Rachel an lòng đến vậy. Tuy nhiên, khi Rachel nhìn về phía đuôi tàu, cô thấy dòng hải lưu chảy xiết cuộn lên như thể con tàu đang chạy hết tốc lực. Chúng ta đang ở ngay trên một xoáy nước lớn, cô thầm nghĩ.
Ở tận cùng phía đuôi tàu, Rachel nhận ra chiếc tàu lặn nhỏ Triton - được đặt tên theo thần biển của người Hy Lạp - trông chẳng giống vị thần biển bị nhốt trong lồng sắt chút nào. Ngay trên mũi con tàu nhỏ này là vòm chứa acide acrylic, khiến nó trông giống chiếc bể cá hơn là chiếc tàu ngầm. Rachel thầm nghĩ trên đời này không còn gì đáng sợ hơn ở một mình trong lòng biển sâu, sát cái vòm chứa đầy acide kiểu này. Nhưng theo lởi Tolland, khó chịu nhất lại là giai đoạn đầu, khi con tàu được thả xuống biển bằng cái tời gắn bên hông tàu Goya, treo lủng lẳng như quả lắc đồng hồ trên không trung, cách mặt biển ba mươi mét.
- Xavia chắc đang ở trong phòng thí nghiệm. - Tolland nói, đi dọc boong tàu. - Lối này.
Rachel và Corky bước theo Tolland. Còn viên phi công thì ngồi lại trên máy bay, được dặn dò kỹ lưỡng là không được dùng sóng vô tuyến để bên lạc với bất kỳ ai.
- Hai người hãy xem nhé. - Tolland nói, dừng lại bên lan can ở đuôi tàu.
Rachel miễn cưỡng tiến sát đến mép tàu. Lan can khá cao. Mặt nước bên dưới cách họ những ba mươi foot, thế mà Rachel vẫn cảm thấy vô cùng sợ hãi.
Nhiệt độ ở đây tương đương với nước ấm trong bồn tắm.
Tolland nói trong tiếng nước ào ào. Ông với tay bật công tắc gắn trên tay vịn. - Xem này.
Một chùm sáng toả rộng chiếu xuyên qua vùng nước phía đuôi tàu. Cả Rachel và Corky đều thấy ngộp thở.
Quanh con tàu là hàng chục hình dáng ma quái. Chỉ cách mặt nước vài foot, hàng đàn cá lớn đen xì, bóng nhẫy bơi song song ngược dòng hải lưu, những cái đầu hình búa không lẫn vào đâu được đang lắc qua lắc lại trong một nhịp điệu ma quái đặc trưng mà tổ tiên chúng từ thời tiền sử truyền lại.
- Chúa ơi. - Corky lắp bắp. - Rất mừng được anh báo trước thế này, Mike ạ.
Rachel đờ người. Cô muốn lùi xa mép tàu, nhưng chân không nhúc nhích nổi. Những gì vừa trông thấy đã khiến cô ngây dại.
- Cảnh tượng hiếm có, đúng không? - Tolland nói. Ông lại đặt tay lên vai Rachel để trấn an. - Chúng sẽ vui đùa ở vùng nước ấm này vài tuần. Những con cá này thính mũi nhất đại dương - thuỳ khứu giác telencephalon của chúng cực kỳ nhạy bén. Chúng có thể ngửi được mùi máu cách xa một dặm.
Corky tỏ ra hoài nghi:
- Thuỳ khứu giác telencephalon cực nhạy à?
- Anh không tin ư? - Tolland đến bên cái tủ bằng nhôm đặt gần đó. Loáng một cái, ông đã lôi ra một con cá nhỏ. – Tốt lắm. - Ông lấy con dao nhỏ và khía vài nhát trên mình con cá mềm oặt. Máu bắt đầu rỉ ra.
- Mike này, lạy Chúa tôi. - Corky nói. - Ghê quá!
Tolland ném con cá xuống biển. Ngay khi con cá rơi xuống mặt biển, gần chục con cá mập lập tức lao bổ đến, những chiếc răng trắng nhởn, sắc nhọn bổ phầm phập vào con cá bé nhỏ. Sau một tích tắc, con cá hoàn toàn biến mất.
Kinh hãi, Rachel quay lại nhìn Tolland ông đã cầm trên tay một con cá nữa. Cùng loại. Cùng kích cỡ.
- Lần này không có máu. - Tolland nói, rồi ném luôn con cá xuống biển mà không lấy dao cắt ra như lần trước nữa. Con cá rơi xuống nước, nhưng không có bất kỳ động tĩnh nào. Lũ cá mập đầu búa dường như không hề để ý. Con cá mồi bị dòng hải lưu chảy xiết cuốn đi, không gây ra bất kỳ xáo động nào.
- Chúng chỉ tấn công khi ngửi thấy có mùi máu. - Tolland đứng dựa người vào lan can boong tàu và nói. Thực ra chúng ta có thể bơi ở khu vực này mà vẫn an toàn với điều kiện là trên người không có vết thương hở nào.
Corky chỉ tay vào những mũi khâu trên mặt ông ta.
Tolland nhíu mày:
- Đúng thật, cậu thì không được bơi.


Chiếc taxi của Gabrielle Ashe không thể nhúc nhích.
Bị mắc kẹt trong đám tắc đường gần đài tưởng niệm FDR, Gabrielle đưa mắt nhìn quang cảnh hai bên đường, và chợt cảm thấy màn sương mờ siêu thực như đang ôm trùm lấy thành phố.
Lúc này phát thanh viên trên đài đang thông báo rằng người vừa bị tai nạn có thể là một nhân vật cao cấp của Chính phủ.
Lấy điện thoại cầm tay ra, cô gọi Thượng nghị sĩ. Chắc chắn giờ này ông đang băn khoăn tại sao cô lại biến mất lâu đến thế.
Đường dây đang bận.
Nhìn đồng hồ đo độ dài của chiếc taxi đang nhấp nháy, Gabrielle nhnl mày. Mấy chiếc xe xung quanh đang quay đầu để đi đường khác.
Người lái xe quay đầu lại hỏi:
- Cô có muốn đợi không? Lâu quá là đồng hồ sẽ tự nhảy đấy.
- Thêm nhiều xe của cảnh sát đang kéo đến. - Không. Quay lại thôi.
Người lái xe làu nhàu gì đó vẻ đồng tình rồi cho xe quay lại. Đi qua chỗ ngoặt, cô lại gọi cho Thượng nghị sĩ lần nữa.
Máy vẫn bận.
Vài phút sau, sau khi vòng vèo, chiếc xe đi qua phố C., Gabrielle nhìn thấy toà cao ốc văn phòng Phillip A. Heart lờ mờ phía trước. Cô định đến thẳng nhà riêng của Thượng nghị sĩ, nhưng nếu văn phòng của ông ở ngay gần đây thế này thì…
- Dừng lại đi. - Cô bảo người lái xe. - Tôi xuống đây cũng được.
- Cảm ơn anh.
Xe dừng bánh.
Thanh toán tiền xong, Gabrielle cho anh ta thêm mười đô la nữa.
- Anh có thể đợi tôi mười phút được không?
Người lái xe cầm tiền và nhìn đồng hồ đeo tay:
- Đúng mười phút thôi nhé.
Gabrielle hối hả bước đi. Năm phút nữa tôi quay ra ngay…
Vào lúc khuya khoắt này, khu văn phòng lát đá hoa cương của Thượng nghị sĩ trông thật đìu hiu. Đi lướt qua dãy tượng đặt cạnh hành lang tầng ba, Gabrielle chợt có cảm giác căng thẳng. Những đôi mắt bằng đá như đang theo dõi từng cử động của cô.
Đến cửa khu văn phòng mà Thượng nghị sĩ thuê riêng, cô tra thẻ ra vào vào khe để mở cửa. Hành lang mờ tối. Qua sảnh chờ rộng, cô tiến tới hành lang dẫn vào phòng thư ký. Cô vào trong, bật đèn lên, và bước thẳng tới bên chồng tài liệu trên bàn của mình.
Gabrielle có cả cặp tài liệu về những chi phí của NASA cho dự án PODS cũng như những thông tin về chính dự án đó. Rất có thể Thượng nghị sĩ sẽ cần có ngay những tài liệu cần thiết về PODS sau khi nghe cô báo cáo về Harper.
NASA nói dối về PODS.
Gabrielle chưa kịp chạm tay vào cặp tài liệu thì điện thoại cầm tay của cô đổ chuông.
- Thượng nghị sĩ phải không ạ? - Cô trả lời máy.
- Không đâu, Gabrielle. Yolanda đây. - Người bạn thân thiết của cô lên tiếng. - Em vẫn còn ở trụ sở NASA đấy à?
- Không. Em ở văn phòng.
- Có tìm được gì ở NASA không?
- Chị không thể tin nổi đâu. Gabrielle biết rằng cô nên nói chuyện với Thượng nghị sĩ trước rồi mới kể với Yolanda. Thượng nghị sĩ sẽ quyết định xử lý thông tin theo cách nào. - Em phải báo cáo với Sexton trước rồi mới kể với chị được. Em đang trên đường đến nhà riêng ông ấy.
Yolanda im lặng một lúc.
- Gab này, em còn nhớ những điều hồi nãy em nói với chị về chuyện tiền bạc giữa Sexton và SFF không?
- Em đã bảo chị là em sai và…
- Chị vừa được biết rằng hai phóng viên chuyên phụ trách mảng vũ trụ của đài chị đang điều tra về chuyện ấy đấy.
Gabrielle ngạc nhiên:
- Thế nghĩa là sao?
- Chị không biết. Những họ đều là người tử tế, và đều tin rằng Sexton nhận tiền của SFF. Biết tin là chị gọi cho em ngay. Hồi tối chị có nói với em là chuyện đó không thể có thật. Những thông tin mà Marjorie Tench cung cấp có thể không chính xác. Nhưng những phóng viên của đài chị…, chị cũng chẳng biết thế nào, có lẽ em nên nói chuyện với họ rồi hãy đến gặp Thượng nghị sĩ.
- Nếu họ tin là thế thật thì tại sao chưa cho phát tin lên sóng?
Gabrielle không ngờ giọng điệu của cô lại đanh thép đến thế.
- Họ chưa có bằng chứng cụ thể. Thượng nghị sĩ rất giỏi xoá dấu vết.
- Chính khách nào mà chả thế.
- Không có chuyện ấy đâu Yolanda ạ. Em khẳng định với chị là Thượng nghị sĩ chỉ nhận những khoản hiến tặng trong giới hạn cho phép.
- Chị biết là ông ấy bảo em thế, Gab ạ. Chị không muốn khẳng định điều gì đúng, điều gì sai. Chị chỉ cảm thấy có trách nhiệm phải báo cho em biết vì chị đã khuyên em đừng tin lời nói của Marjorie Tench; và giờ đây chị vừa được biết rằng những người khác cũng có cùng quan điểm với bà ta. Thế thôi.
- Hai phóng viên đó tên là gì? - Gabrielle chợt cảm thấy bực bội.
- Chị không thể nói tên. Nhưng chị có thể dàn xếp một cuộc gặp Họ tử tế lắm. Và rất am hiểu luật… - Yolanda lưỡng lự giây lát - Em biết không, họ còn tin rằng Sexton đang khốn đốn vì tiền thậm chí đến mức phá sản.
Trong văn phòng yên ắng, Gabrielle tưởng như nghe rõ mồn một giọng nói chát chúa của Yolanda. Sau khi Catherine mất, Thượng nghị sĩ đã tiêu tán phần lớn số tiền bà ấy để lại vào những khoản đầu tư thiếu khôn ngoan, vì hưởng thụ cá nhân, và đánh đổi cho mình chút thành công nhỏ mọn trước mắt. Cách đây khoảng sáu tháng, ông ta đã phá sản.
- Hai phóng viên này chắc sẽ đồng ý nói chuyện với em đấy. - Yolanda nói.
- Dĩ nhiên rồi! - Gabrielle thầm nghĩ. - Em sẽ gọi lại cho chị.
- Hình như em không tin tưởng lắm.
- Bao giờ em cũng tin chị. Em luôn tin ở chị. Cảm ơn chị.
Gabrielle tắt máy.
Người vệ sĩ đang gà gật trên chiếc ghế bành ngay cửa căn hộ của Thượng nghị sl Sexton tại khu Westbrooke, đột nhiên chuông điện thoại trong túi áo vang lên khiến anh ta giật mình tỉnh giấc. Ngồi bật dậy, anh ta dụi mắt rồi nghe máy.
- Tôi nghe.
- Owen à? Gabrielle đây.,.
- Vệ sĩ của Sexton nhận ra giọng cô, là, xin chào.
- Tôi có chuyện cần nói với Thượng nghị sĩ. Anh gõ cửa hộ tôi được không? Máy bàn của ông ấy bận suốt.
- Đêm khuya lắm rồi.
- Ông ấy vẫn thức đấy. Tôi biết mà. - Gabrielle tỏ ra rất nôn nóng.
- Khẩn cấp lắm.
- Lại chuyện khẩn nữa à?
- Vẫn chuyện ban nãy. Bảo ông ấy trả lời máy tôi ngay. Có chuyện này tôi phải hỏi ông ấy.
Anh chàng vệ sĩ thở dài đứng dậy.
- Thôi được, thôi được. Tôi sẽ gõ cửa. - Anh ta sải bước về phía cửa phòng riêng của Sexton.
- Hồi tối đã cho cô vào rồi thì giờ phải gọi cửa cho cô nốt vậy. Đã chót thì phải chét. - Anh ta miễn cưỡng giơ tay lên định gõ cửa.
- Anh vừa bảo gì cơ? - Gabrielle hỏi.
Anh chàng vệ sĩ rụt phắt tay lại.
- Tôi bảo là lúc nãy Thượng nghị sĩ tỏ ra hài lòng vì tôi đã để cô vào. Ông ấy bảo tôi xử sự thế là đúng. Không có vấn đề gì cả.
- Anh đã cho Thượng nghị sĩ biết à?
- Ừ. Thế thì sao?
- Không tôi tưởng…
- Quả là ông ấy hơi bị bất ngờ. Phải mất vài giây ông ấy mới nhớ ra là cô cũng ở trong đó. Chắc bọn họ uống khá nhiều rượu.
Im lặng một hồi lâu.
- Thôi… thôi. Chẳng có gì đâu. Để lúc khác tôi hỏi Thượng nghị sĩ cũng được. Tôi gọi vào máy bàn xem thế nào đã. Biết đâu lại được. Nếu cần tôi sẽ gọi lại nhờ anh gõ cửa.
Anh chàng vệ sĩ trợn tròn mắt.
- Thế cũng được, cô Ashe ạ.
- Cảm ơn Owen. Phiền anh quá.
- Không có gì. - Anh ta tắt máy, lại nằm phịch xuống ghế rồi ngủ ngay.
Một mình trong văn phòng, Gabrielle đứng chết lặng mất mấy giây rồi mới tắt được máy. Sexton đã biết mình vào trong căn hộ… nhưng không nói với mình một lời.
Đêm nay, một đêm đầy biến động, trời trở nên u ám. Gabrielle nhớ lại cuộc nói chuyện điện thoại với ngài Thượng nghị sĩ lúc còn ở đài NBC ông ta làm ra vẻ không biết cô ở đó, ra vẻ tự nguyện kể hết cho cô nghe về cuộc gặp bí mật cũng như chuyện tiền bạc.
Tưởng ông ta thật thà, cô đã tin ngay. Giờ đây, Gabrielle nhận ra rằng ngài ứng cử viên của mình không trung thực đến thế.
Tiền chẳng đáng bao nhiêu, Sexton đã nói với cô như thế. Hoàn toàn hợp pháp…
Đột nhiên, tất cả những điều Gabrielle nghi ngờ về Thượng nghị sĩ Sexton cùng đồng loạt quay trở lại.
Dưới đường, người lái taxi đang bấm còi inh ỏi.
103.
Đài chỉ huy của tàu Goya là một căn phòng hình vuông, cao hơn boong chính hai tầng lầu. Từ đây, Rachel có thể quan sát khắp vùng biển tối sẫm xung quanh, một quang cảnh chẳng mấy hấp dẫn, tập trung vào công việc đang dở dang, cô không nhìn ra ngoài nữa.
Sau khi để Tolland và Corky đi tìm Xavia, Rachel liên lạc với Pickering. Cô đã hứa với Giám đốc là đến nơi thì sẽ gọi ngay về, vả lại lúc này Rachel cũng nóng lòng muốn hỏi xem ông đã biết thêm được gì sau khi gặp Marjorie Tench.
Hệ thống liên lạc SHINCOM 2100 của tàu Goya rất quen thuộc đối với Rachel. Cô biết những cuộc đàm thoại ngắn bằng hệ thống liên lạc số hoá này thường rất an toàn.
Quay xong số máy cá nhân của Pickering, cô đợi, áp chặt ống nghe vào tai. Rachel tưởng Pickering sẽ nghe máy ngay sau hồi chuông đầu tiên. Nhưng chuông cứ đổ mãi.
Sáu hồi. Bẩy hồi. Tám…
Rachel đăm đăm nhìn mặt biển tối sẫm, không liên lạc được với chỉ huy, cô càng cảm thấy bất an trước biển.
Chín hồi chuông. Mười hồi. Nghe máy đi sếp!
Rachel đi đi lại lại, chờ đợi. Có chuyện gì thế nhỉ? Lúc nào Pickering chả mang máy theo người, ông còn dặn Rachel gọi lại cơ mà.
Sau mười lăm hồi chuông. Rachel gác máy.
Lo lắng bồn chồn, cô quay số một lần nữa.
Bốn hồi. Năm hồi.
Sếp đâu nhỉ.
Cuối cùng thì cũng kết nối được. Rachel thấy nhẹ nhõm, nhưng chẳng được bao lâu. Không có ai trả lời máy. Hoàn toàn im lặng.
- Alô. - Rachel lên tiếng. - Phải Giám đốc đó không?
Có ba tiếng bíp vang lên.
- Alô? - Rachel nói.
Một loạt những tiếng bíp bíp vang lên ầm ĩ, nghe rất chói.
Rachel phải đưa ống nghe ra xa tai. Những tiếng bíp đột nhiên chấm dứt. Sau đó là một loạt những tiếng lách cách, mỗi tiếng cách nhau nửa giây. Rachel hiểu ra. Rồi thấy sợ.
- Chết tiệt!
Quay về bêện bàn điều khiển, cô dập mạnh ống nghe, ngắt cuộc gọi. Rachel sợ hãi đứng chết sững mất mấy giây, thầm băn khoăn không biết ngắt cuộc gọi như thế có kịp thời không.
Cách boong chỉ huy hai tầng lầu, phòng thí nghiệm của tàu Goya là một khu làm việc khá rộng được chia thành nhiều ngăn nhỏ, chứa đầy thiết bị điện tử - thiết bị quan sát đáy biển, thiết bị phân tích dòng hải lưu, các phòng kính, phòng làm lạnh mẫu vật, máy tính cá nhân, và hàng loạt khay nhựa đựng số liệu nghiên ứu và các phụ từng dự trữ.
Khi Tolland và Corky bước vào, nhà địa lý học duy nhất trên tàu Goya – Xavia - đang ngồi trước tivi. Cô không quay đầu lại.
- Các anh hết tiền mua bia rồi à? - Cô nói vọng ra, tưởng mấy thuỷ thủ của tàu vừa quay về.
- Xavia đấy à? - Tolland lên tiếng, - Mike đây.
Nuối vội miếng bánh mì kẹp đang ăn dở, Xavia quay phắt lại.
- Mike à? - Cô lắp bắp, vô cùng kinh ngạc. Đứng dậy, cô tắt tivi và tiến lại gần hai người, miệng vẫn đang nhai. - Tôi cứ tưởng mấy anh chàng vừa đi nhậu nhẹt về. Anh làm gì ở đây thế?
Xavia khá đậm người, da ngăm đen, giọng nói sắc lạnh và vẻ mặt hằm hằm khó chịu. Cô chỉ chiếc tivi đang phát lại đoạn phim tài liệu của Tolland.
- Anh ở trên phiến băng không được lâu lắm nhỉ.
Có chuyện rắc rối xảy ra. Tolland nghĩ thầm.
- Xavia này, tôi đoán là cô biết Corky Marlinson.
Xavia gật đầu:
- Rất hân hạnh được gặp tiến sĩ.
Corky thèm thuồng nhìn mẩu bánh mì mà Xavia đang ăn dở.
- Trông ngon lành ghê.
Xavia khó chịu liếc xéo nhà cổ sinh học.
- Tôi đã nghe đoạn băng cô thu sẵn cho tôi trên điện thoại. - Tolland nói với Xavia. - Trong đoạn phim tài liệu của tôi có sai sót à? Cô hãy nói rõ hơn về điều đó.
Nhà địa chất học trợn tròn mắt nhìn Tolland rồi phá lên cười sằng sặc.
- Chỉ vì thế mà anh phải quay về đây ngay à? Mike ơi là Mike! Tôi đã bảo anh là chi tiết đó không có gì đáng kể cơ mà. NASA đã cung cấp cho anh những dữ liệu quá lạc hậu. Nhưng không có gì trầm trọng đâu. Chắc chỉ dăm ba nhà địa chất hoc hàng đầu nhận ra được sai sót đó thôi mà.
Tolland gần như nín thở khi ông hỏi:
- Có phải sai sót đó liên quan đến các chrondrule không?
Xavia kinh ngạc đến tái mặt:
- Chúa ơi! Đã có người gọi điện đến cho anh về chuyện đó rồi cơ à?
Tolland ngồi sụp xuống. Các chrondrule. Ông hết nhìn nhà cổ sinh học rồi lại quay sang nhìn chuyên gia địa lý học:
- lXavia này, hãy nói với tôi tất cả những gì cô biết về các chrondrule. Sai sót của tôi là thế nào?
Xavia nhìn Tolland chăm chú, và cuối cùng cũng nhận ra dáng vẻ hết sức căng thẳng của ông.
- Mike, thực ra chẳng có gì to tát cả. Dạo trước tôi đã đọc một báo cáo khoa học đăng trên tạp chí. Nhưng tại sao anh lại lo lắng đến mức thái quá như vậy nhỉ?
Tolland thở dài.
- Xavia này, câu chuyện này vô cùng lạ lùng, nhưng đêm nay cô càng biết ít càng tốt. Hãy nói với chúng tôi tất cả những gì cô biết về chrondrule, sau đó phân tích hộ tôi một mẫu đá.
Dường như Xavia vẫn đang tò mò không biết có chuyện gì, nhưng không hỏi gì thêm.
- Được, để tôi quay về phòng lấy bài báo đó cho anh xem. - Cô để miếng bánh đang ăn dở xuống ghế và nhanh nhẹn tiến ra cửa.
Corky gọi với theo:
- Này, cho tôi nốt nhá!
Xavia dừng lại, không tin vào tai mình:
- Ông muốn ăn nốt cái bánh của tôi à?
- À, nếu cô không muốn ăn nữa thì…
- Ông tự đi lấy bánh mới mà ăn! - Xavia bỏ đi.
Tolland cười ha hả, chỉ cái tủ lạnh đặt trong góc phòng. - Ngăn dưới cùng bên trái, Corky. Cạnh túi để mực khô ấy.
Trên boong tàu, Rachel đang hối hả sải bước từ lầu chỉ huy xuống đuôi tàu, chỗ chiếc trực thăng đang đậu. Đang gà gà gật gật, người phi công ngồi thẳng dậy khi cô đập thình thình lên cửa cabin.
- Xong rồi cơ à? Anh ta hỏi. - Sao nhanh thế?
Rachel lắc đầu, vẻ mặt vô cùng căng thẳng:
- Anh làm ơn bật hết cả radar quét trên không và trên mặt biển lên.
- Được ngay. Bán kính quan sát là mười dặm.
- Làm ơn bật ngay lên hộ tôi.
Người phi công vặn nút, gạt vài cái cần, và màn hình radar bật sáng. Ông kính quan sát bắt đầu quay chầm chậm.
- Có thấy gì không? - Rachel hỏi ngay.
Người phi công đợi đến khi ống kính đã quay kín một vòng. Chỉnh lại ống kính, rồi lại chờ. Không thấy gì hết.
- Chỉ có vài con thuyền nhỏ đi lướt qua ở tít ngoài xa, nhưng đều đi ra hướng khác. Chẳng có gì hết. Cả mặt biển lẫn bầu trời đều trống không.
Rachel Sexton thở phào, dù vẫn chưa hoàn toàn yên tâm.
- Tôi nhờ anh một việc. Nếu thấy bất kỳ cái gì tiến về phía chúng ta - thuyền, máy bay, bất kỳ cái gì - thì báo cho tôi ngay, được không?
- Được! Mọi thứ vẫn ổn cả chứ?
- Không có gì. Tôi chỉ muốn biết có ai đang tiếp cận chúng ta hay không thôi.
Người phi công nhún vai:
- Tôi sẽ quan sát, thưa cô. Nếu có tiếng bíp nào thì cô sẽ là người đầu tiên được biết.
Rachel đi về phía phòng thí nghiệm, ruột gan như có lửa đốt.
Đến nơi, cô thấy Tolland và Corky đang đứng trước một cái máy tính nhồm nhoàm nhai bánh mì.
Đầy miệng bánh, Corky trông thấy cô là gọi liền:
- Cô muốn ăn loại nào? Xa lát gà và cá, cá bologna, hay cá và trứng nào?
Rachel chẳng nghe thấy gì.
- Mike, mất bao lâu nữa thì chúng ta xong việc và rời khỏi nơi này được?



***Xem trang:
[1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15][16][17][18][19][20]
[21][22][23][24][25][26][27][28][29][30][31][32][33][34][35][36][37][38][39][40][41][42][43]

TOP WAP WORLDWIDE


mobiV trang ch

© GIAITRI102.TK
Thanks to XTGEM

Old school Swatch Watches