Pair of Vintage Old School Fru
Không bấm vùng phía trên kẻo mất tiền nhé!

- Đừng làm thế. - Thấy Sexton đã photocopy xong xấp tài liệu, Gabrielle lại tiếp tục nài nỉ. - Thượng nghị sĩ đang hại chính con gái mình đấy!
Sexton tảng lờ như không nghe thấy gì, ông mang mười xấp tài liệu vừa photocopy lại bên bàn làm việc. Xấp nào cũng có những trang tài liệu mà Rachel gửi về, cả trang giấy viết tay với nội đung rằng tảng thiên thạch là giả và Nhà Trắng hoặc NASA đang tìm cách sát hại cô.
Cuộc họp báo tai tiếng nhất trong lịch sử, Sexton thầm nghĩ, bắt đầu xếp những xấp tài liệu vào mười chiếc phong bì lanh màu trắng. Trên mỗi phong bì đều có tên, địa chỉ văn phòng cũng như con dấu Thượng nghị sĩ của ông. Vụ tai tiếng chính trị của thế kỷ, Sexton thầm nghĩ, và mình sẽ là người đưa sự việc ra ánh sáng!
Gabrielle vẫn tiếp tục cầu xin cho sự an toàn của Rachel, nhưng Sexton không nghe thấy gì hết. Tay xếp tập phong bì, tâm trí vị Thượng nghị sĩ này đã lui vào trong một thế giới riêng nào đó sâu kín xa xăm. Sự nghiệp chính trị nào cũng bao gồm những giây phút có tính quyết định. Đây là thời điểm của chính mình.
Trong lời nhắn ghi trên máy, William Pickering đã nói rằng nếu công khai những thông tin này thì mạng sống của Rachel sẽ bị đe doạ. Không may cho Rachel, ngài Thượng nghị sĩ biết rõ rằng một khi ông đã công bố những tài liệu này, bất kỳ hành động liều lĩnh nào của Nhà Trắng hay NASA sẽ chỉ làm cho thắng lợi chính trị của ông trở nên vang dội hơn mà thôi, vang dội đến mức chưa từng có trên chính trường Hoa Kỳ.
Trong cuộc sống đôi khi phải đưa ra những quyết định khó khăn, ông thầm nghĩ. Và những người biết đưa ra những quyết định như thế sẽ là người chiến thắng.
Gabrielle Ashe đã từng thấy ánh mắt này của Sexton một lần.
Tham vọng mù quáng. Cô thấy sợ. Và Gabrielle đã nhận ra. Rõ ràng là Sexton đã chủ định phó mặc mạng sống của con gái mình để trở thành người đầu tiên công bố trò lừa đảo này của NASA.
- Chẳng lẽ Thượng nghị sĩ không thấy là ông đã nắm chắc phần thắng rồi hay sao? - Gabrielle hỏi. - Zach Herney và NASA không cách gì gượng dậy được sau vụ bê bối này. Bất kế ai là người công bố tin này! Bất kể khi nào nó được công bố! Hãy đợi đến khi biết chắc Rachel được an toàn đã. Đợi đến khi ông nói chuyện rõ ràng với Pickering đã chứ!
Nhưng Sexton không còn nghe nữa, ông ta mở ngăn kéo, lôi ra một tờ giấy nền có những con dấu bằng sáp mạ kền một mặt có keo khắc nổi tên mình. Gabrielle biết Thượng nghị sĩ thường dùng những con dấu này cho những lời mời chính thức, nhưng hiển nhiên là ông ta muốn màu đỏ của con dấu trên nền phong bì trắng sẽ tạo ấn tượng về một kịch bản chính trị mùi mẫn. Gỡ những con dấu sáp từ tờ giấy nến ra, ông ta lần lượt gắn những con dấu lên từng chiếc phong bì.
Lúc này, tim Gabrielle lồng lên vì phẫn nộ. Cô nghĩ đến những tờ séc bất hợp pháp được quét ảnh số hoá lưu trong máy tính của ông ta. Nếu Gabrielle nói hở ra thì lập tức ông ta sẽ xoá sạch.
- Ông đừng làm thế, - cô nói - nếu không tôi sẽ công bố mối quan hệ giữa hai chúng ta.
Sexton cười phá lên, tay vẫn không ngừng gắn những con dấu lên phong bì.
- Thật thế à? Và cô nghĩ rằng thiên hạ sẽ tin à? Một cộng sự máu mê quyền lực khước từ một chỗ làm trong chính quyền mới của tôi và tìm cách báo thù à? Tôi đã từng một lần phủ nhận sự dính líu đó, và cả thế giới đã tin. Tôi sẽ phủ nhận một lần nữa.
- Nhà Trắng có ảnh đấy. - Gabrielle tuyên bố.
Sexton không thèm ngẩng lên.
- Họ không có ảnh. Mà nếu có đi chăng nữa thì cũng hoàn toàn vô nghĩa. - Ông ta gắn con dấu cuối cùng. - Tôi đã có lá bùa hộ mệnh. Những phong bì này sẽ vô hiệu hoá bất kỳ đòn tấn công nào nhằm vào tôi.
Gabrielle biết ông ta nói đúng. Nhìn Sexton ngắm nghía công trình của mình, cô cảm thấy thật bất lực. Trên bàn lúc này là mười phong bì lanh màu trắng, trên mỗi phong bì đều đề tên, địa chỉ và gắn một con dấu sáp đỏ chói khắc lồng những chữ cái đầu tên của ông ta. Trông như những lá thư của Hoàng gia. Và chắc chắn nhiều người đã từng được phong vương vì những vấn đề còn lâu mới quan trọng đến thế này.
Sexton cầm xấp phong bì và chuẩn bị ra khỏi phòng. Gabrielle đứng lên chặn đường.
- Thượng nghị sĩ đang làm một việc sai lầm. Việc này có thể hoãn lại được mà.
Sexton nhìn xoáy vào Gabrielle:
- Này, chính tôi đã gây dựng cho cô, và giờ tôi trả cô về với con số không.
- Những giấy tờ Rachel fax về sẽ mang lại cho Thượng nghị sĩ chiếc ghế Tổng thống. Ông mắc nợ chị ấy.
- Tôi đã cho nợ rất nhiều thứ khác.
- Nhỡ có chuyện gì xảy đến với chị ấy thì sao!
- Thì chắc chắn tôi sẽ giành được nhiều lá phiếu vì thông cảm.
Gabrielle không thể ngờ những ý nghĩ ấy có thể xuất hiện trong đầu ông ta, càng không thể tin ông ta dám nói thẳng ra như thế. Kinh tởm, cô với điện thoại:
- Tôi sẽ điện cho Nhà..
Sexton quay phắt lại và tát mạnh vào mặt Gabrielle.
Gabrielle loạng choạng cảm thấy môi bị rách toạc. Cô lấy lại thăng bằng, bám lấy mép bàn, kinh ngạc nhìn người đàn ông mà cô đã từng ngưỡng mộ…
Sexton hằn học nhìn cô hồi lâu.
- Nếu cô tin là có thể cản bước được tôi nói cho mà biết, tôi sẽ khiến cô phải ân hận suốt quãng đời còn lại.
Ông ta đứng đó, kẹp xấp phong bì trong tay, mắt vằn lên tức tối.
Đến lúc Gabrielle ra khỏi toà cao ốc, ra ngoài trời đêm giá lạnh, môi cô vẫn tiếp tục chảy máu. Cô vẫy một chiếc taxi và lên xe. Lần đầu tiên từ ngày đặt chân đến Washington, Gabrielle đổ sụp xuống, khóc nức nở.
127.
Tầu Triton đang chìm…
Loạng choạng trên boong tàu nghiêng dốc, từ sau cuộn dây tời, Tolland nhìn về chỗ trước đó tàu lặn Triton vẫn được treo lủng lẳng bằng dây cáp. Rồi quay về phía mũi tàu, ông nhìn khắp mặt biển bên dưới. Tàu Triton đang từ dưới nước trôi dần lên. Thở phào thấy chiếc tàu nhỏ vẫn còn nguyên vẹn. Ông nhìn cửa tàu, mong được thấy Rachel mở cửa bước ra, nguyên vẹn và an toàn.
Nhưng nắp tàu vẫn đóng im ỉm. Tolland băn khoăn, hay Rachel đã bị văng ra ngoài khi con tàu nhỏ bị lắc mạnh và rơi xuống nước?
Dù ở tít trên cao, Tolland vẫn thấy ngay rằng tàu Triton đang ở rất thấp dưới mặt nước, thấp hơn nhiều so với ngấn nước thông thường của con tàu nhỏ này. Nó đang chìm! Tolland không thể hiểu lí do là gì, nhưng lúc này cái đó không hề quan trọng chút nâo.
Mình phải đưa Rachel ra ngoài! Ngay bây giờ!
Tolland vừa quay người định chạy ra mép boong thì một làn mưa đạn bay chíu chít quanh ông, bắn trúng vào cuộn dây tời bằng thép, lửa toé đỏ rực. Ông vội quỳ thụp xuống. Khỉ thật! Ông nhìn xuống phía đuôi tàu, và thấy Pickering đang đứng đó, súng chĩa thẳng về phía ông như người làm vườn đang cầm kéo hạ cành. Delta-Một đã quẳng súng để trèo lên chiếc phi cơ định mệnh, giờ thì Pickering đã nhặt khẩu súng lên. Lúc này ông ta đang đứng ở vị trí rất thuận lợi.
Bị kẹt sau cuộn dây tời, Tolland cúi xuống nhìn con tàu nhỏ đang chìm dần. Cố lên nào, Rachel! Ra đi nào! Ông đợi nắp tàu mở ra. Nhưng vẫn không thấy gì.
Quay lại nhìn quanh boong tàu Goya, Tolland ước lượng khoảng cách từ chỗ ông đang đứng đến lan can ở mép boong.
Khoảng bảy mét. Không có vật che chắn thì khoảng cách đó là quá lớn. Tolland hít một hơi thật sâu và hạ quyết tâm. Ông xé toạc áo sơ mi và quăng sang bên phải chỗ mặt boong trống trải. Trong khi Pickering nã đạn vào tấm áo vốn đã rách tơi tả, Tolland lao sang bên trái, dọc theo dốc nghiêng của boong tàu, đến bên lan can ông nhảy thật mạnh qua lan can, nhảy khỏi boong tàu. Lăng mạnh người trong không trung, ông nghe tiếng đạn réo khắp xung quanh, và biết rằng chỉ cần một vết xây xước nhẹ cũng đủ để ông trở thành mồi ngon của lũ cá mập đầu búa ngay khi chạm mặt nước.
Rachel Sexton cảm thấy mình giống như một con thú hoang bị sa bẫy. Hết lần này đến lần khác, cô ra sức mở nắp tầu, nhưng vô hiệu. Rachel nghe rõ tiếng nước ùng ục tràn vào một khoang nào đó bên dưới đáy tàu, và cảm nhận rõ ràng là trọng lượng của con tàu đang tăng dần lên. Làn nước đen thẫm đang từ từ dâng lên bên ngoài lớp vỏ tàu trong suốt, như tấm màn đen đang được kéo dần từ dưới lên…
Nhìn xuyên qua lớp vỏ tàu bằng kính, Rachel thấy biển mênh mông đen thẳm chẳng khác nào lăng mộ. Khoảng đen sẫm vô cùng ấy như muốn nuốt chửng cả cô lẫn con tàu vào lòng nó. Cô lại túm lấy núm vặn cánh cửa và cố sức quay, nhưng cái núm vẫn không hề nhúc nhích. Hai lá phổi của Rachel lúc này đã bắt đầu thấy đau, không khí trong khoang lái thật nặng mùi, lượng khí CO2 quá lớn khiến hai lỗ mũi cô cay xè.
Mình sắp bị chết chìm trong đơn độc.
Rachel nhìn mọi cần gạt và núm điều khiển của con tàu, nhưng tất cả các bảng chỉ dẫn đều đen ngòm. Không có điện. Cô bị mắc kẹt trong một hầm mộ bằng thép, và đang chìm dần xuống đáy biển.
Tiếng nước chảy ùng ục mỗi lúc một nhanh và mạnh hơn, chỉ còn chưa đến nửa mét nữa là con tàu sẽ chìm hẳn xuống nước. Xa xa, từ bên kia khoảng tối vô tận của mặt nước hiện ra một dải sáng màu đỏ ối. Bình minh đang lên. Rachel sợ, rất có thể đây sẽ là những tia sáng cuối cùng cô được trông thấy. Nhắm chặt mắt để khỏi phải thấy kết cục không tránh khỏi, Rachel chợt thấy những ác mộng ngày nào ùa về, tràn lấp toàn bộ trí não.
Ngã nhào qua lớp băng đang tan. Chừn xuống nước sâu.
Ngạt thở. Không thể nổi lên được. Chìm dần xuống.
Tiếng mẹ gọi thảng thốt: "Rachel! Rachel!"
Tiếng đập thình thình vào nắp tàu kéo Rachel khỏi cơn mơ. Cô mở mắt.
- Rachel! - Tiếng gọi nghe nghèn nghẹt. Một khuôn mặt ma quái hiện ra bên ngoài thân tàu, trong tư thế lộn ngược mái tóc đen bị nước đẩy rối tung. Phải nhìn thật kỹ Rachel mới nhận ra.
Michael!
Tolland trồi lên mặt nước, thở phào nhẹ nhõm thấy Rachel vẫn còn cử động. Rachel còn sống! Tolland sải tay thật mạnh, bơi vòng ra khoang máy của con tàu ở đằng sau cabin. Dòng nước chảy xiết nóng rát như muốn kéo ông xuống. Tolland tìm điểm tựa, khom người xuống để tránh đạn của Pickering vẫn đang tiếp tục nã xuống, và nắm thật chắc khoá vít khung nắp tàu.
Thân tàu Triton vẫn chưa bị chìm hẳn xuống nước, và Tolland biết nếu muốn cứu sống Rachel thì phải thật khẩn trương. Nóc tàu chỉ còn cách mặt nước có mười inch, và khoảng cách ấy đang rút xuống rất nhanh. Mở nắp con tàu sau khi nó đã chìm hẳn xuống có nghĩa là một luồng nước cực mạnh sẽ chảy tràn vào trong thân tàu, khoá chặt Rachel trong đó, và con tàu sẽ nhanh chóng chìm xuống tận đáy biển.
Hoặc là ngay lúc này, hoặc là không bao giờ.
Ông hít hơi thật mạnh, xiết chặt bánh răng điều khiển nóc tàu, xoay ngược chiều kim đồng hồ. Không nhúc nhích. Ông thử lại lần nữa, dồn toàn bộ sức mạnh cơ thể vào những ngón tay. Một lần nữa, nóc tàu không chịu nhúc nhích.
Ông nghe tiếng Rachel đang nói, bên kia lớp kính dày, đằng sau cánh cửa hình vòng cung:
- Em thử rồi! - Cô hét to. - Không mở được!
Nước bắt đầu dâng lên đến mép cửa trên nóc tàu Triton.
- Cùng xoay nào! - ông hét to bảo Rachel. - Em vặn xuôi chiều kim đồng hồ!
Ông biết chiều vặn núm đã được chỉ dẫn rõ ràng trên thành tàu.
- Nào!
Tolland tì người vào thùng đồ để có điểm tựa, lấy hết sức vặn thật mạnh. Bên trong tàu, Rachel cũng đang làm y như thế. Núm điều khiển xoay được khoảng một xăng ti mét rồi bị chết cứng.
Lúc này Tolland mới hiểu ra. Bờ mép của cánh cửa cong không còn được phẳng và đều như trước nữa. Giống như cái nắp chai đã bị đè chặt xuống và vặn hết cỡ, nó đã bị kẹt. Dù lớp đệm bằng cao su vẫn nguyên vẹn, mép sắt của nó đã bị bẻ cong, có nghĩa là cách duy nhất để mở cánh cửa này là dùng mỏ hàn.
Nóc tàu giờ đã chìm xuống dưới mặt nước, và Tolland chợt thấy sợ hãi đến tột cùng. Rachel Sexton sẽ không thể ra khỏi con tàu nhỏ này.
Bên dưới, cách con tàu gần một ngàn mét, chiếc máy bay Kiowa bẹp dúm dó đang chìm rất nhanh, nó đã trở thành tù binh của cả trọng lực lẫn sức hút của xoáy nước nóng khổng lồ dưới đáy biển.
Trong khoang lái, xác Delta-Một lúc này đã hoàn toàn biến dạng bởi áp lực nước.
Chiếc máy bay lao thẳng xuống, những đầu đạn Hellfire vẫn nguyên trên hai cánh, và vòm nham thạch nóng đỏ rực đang đợi sẵn dưới đáy biển. Dưới lớp tro dày ba mét là một vùng nham thạch đang sôi sùng sục ở một ngàn độ, một núi lửa mới sắp hình thành.


Tolland đứng trên khoang máy của con tàu Triton đang dùm dần, nước đã dâng lên đến ngang gối, và ông vắt óc tìm cách đưa Rachel ra ngoài.
Không được để cho nó chìm!
Ông quay sang nhìn tàu Goya, nghĩ đến chuyện móc con tàu nhỏ này vào dây tời để giữ cho tàu Triton không chìm xuống quá sâu.
Không thể. Cuộn dây tời cách xa những năm mươi mét, và Pickering vẫn đang đứng trên cao, ở một điểm nhìn bao quát, y như một hoàng đế La Mã đang oai vệ ngồi bên chiếc ống nhòm Coloseum vấy máu.
Nghĩ đi! Tolland tự ra lệnh cho bản thân. Tại sao nó lại chìm?
Cơ chế phao của chiếc tàu ngầm này vô cùng đơn giản: Những bể đồ dằn được bơm đầy hoặc nước hoặc không khí để điều khiển con tàu di chuyển hướng lên trên hoặc xuống dưới.
Dĩ nhiên là nước đang vào trong các bể dằn.
Nhưng sao lại thế được?
Mọi bể dằn đều được lắp hai van - một ở trên và một ở dưới.
Van bên dưới, là "van lụt", luôn mở, trong khi van bên trên - van khí có thể mở ra hoặc đóng vào để cho phép nước chảy vào trong bể.
Hay là van khí đã bị mở vì lí do nào đó? Tolland không thể nghĩ ra nổi. Ông nằm xoài trên sàn khoang máy, tay lần tìm những lỗ van trên bể dằn. Van khí vẫn đóng. Nhưng trong khi lần tìm những cái van, Tolland còn phát hiện ra một điều nữa.
Các lỗ đạn! Khỉ thật! Khi Rachel nhảy xuống tàu, con tàu này đã bị trúng đạn rất nhiều. Tolland lập tức lặn xuống và bơi dưới đáy con tàu, tay lần khắp mặt dưới của bể dằn quan trọng nhất - bể âm. Người Anh gọi nó là "tàu cao tốc chạy xuống". Người Đức gọi nó là "đi giày đế chì". Cả hai cái tên đều phản ánh đúng chức năng của nó.
Khi đầy nước, bể âm kéo con tàu xuống dưới.
Lấy tay sờ bên thành bể, Tolland tìm thấy hơn chục vết đạn.
Nước đang chảy vào trong. Dù Tolland có muốn hay không thì chiếc tàu ngầm nhỏ này cũng sắp chìm đến nơi…
Nóc tàu lúc này đã cách mặt nước một mét. Bơi vòng qua mặt trước tàu Tolland áp sát mặt vào lớp vỏ kính để nhìn vào bên trong. Rachel đang ra sức đập ầm ầm vào lớp vỏ kính và hét to điều gì đó.
Nỗi sợ hãi trong giọng nói của cô càng khiến Tolland cảm thấy bất lực. Trong chốc lát, ông lại thấy mình trong bệnh viện lạnh lẽo, thấy người phụ nữ ông yêu sắp chết mà không biết làm gì để cứu. Bơi bơi trước con tàu, Tolland tự nhủ rằng ông sẽ không thể chịu đựng điều này thêm một lần nữa. Anh là người sống sót, Celia đã nói thế, nhưng Tolland không muốn sống một mình… thêm một lần nữa.
Phổi đau rát vì hết dưỡng khí, nhưng ông vẫn ở lại bên con tàu Mỗi lần Rachel đập mạnh vào kính, Tolland thấy bọt khí nổi lên, và con tàu lại chìm sâu xuống thêm một chút. Rachel đang nói với ông rằng nước lọt vào qua khe cửa sổ…
Cửa sổ quan sát bị rỉ nước sao? Thật khó tin. Hai lá phổi sắp nổ tung đến nơi, Tolland phải nổi lên. Vừa trồi lên vừa lấy tay sờ khắp gờ cửa sổ, ông phát hiện được một đoạn gioăng cao su đã bị trật ra.
Hoá ra một đoạn gioăng bên ngoài đã bị dập nát khi con tàu rơi xuống. Vì thế cho nên khoang lái mới chìm. Lại thêm một tin xấu.
Lên đến mặt nước, Tolland hít ba hơi thật dài, cố suy nghĩ cho thật mạch lạc. Nước vào trong khoang lái sẽ chỉ khiến cho con tàu chìm nhanh hơn. Con tàu giờ đã cách mặt nước một mét rưỡi, và phải rướn thì chân Tolland mới chạm được nóc tàu. Rachel vẫn đang đập mạnh vào thành tàu một cách tuyệt vọng.
Tolland chỉ nghĩ ra được một giải pháp duy nhất. Nếu ông lặn xuống chỗ khoang máy của tàu Triton và tìm được ống khí áp cao thì có thể dùng nó để bơm đẩy khoang âm. Dù bơm khí vào khoang dằn thủng là một việc làm vô ích, nhưng điều đó sẽ giúp cho con tàu nổi ở gần mặt nước thêm một phút nữa trước khi nó lại tiếp tục chìm xuống sâu hơn.
Sau đó thì sao?
Không nghĩ ra cách nào khác, Tolland chuẩn bị lặn xuống. Hít một hơi thật dài, ông cố kéo cho hai lá phổi giãn nở ra hết cỡ, giãn đễn phát đau. Thêm dung tích cho buồng phổi. Thêm khí oxy. Lặn được lâu hơn. Nhưng khi hai buồng phổi giãn ra, ép vào mạng sườn, một ý tưởng lạ lùng xuất hiện.
Nếu ông tăng áp suất bên trong khoang lái thì sao nhỉ? Cửa quan sát đã có một đoạn gioăng bị trật ra. Nếu tăng được áp suất trong buồng lái, ông có thể khiến cho khoang lái tách khỏi con tàu và cứu Rachel thoát ra.
Ông thở ra, dừng lại trên mặt nước thêm giây lát, xem xét tính khả thi của ý tưởng này. Chẳng phải làm thế là rất logic sao? Suy cho cùng thì tàu ngầm bao giờ cũng được thiết kế để chịu sức ép chỉ từ một phía. Chúng phải chịu được sức ép rất lớn từ bên ngoài, chứ không phải từ bên trong.
Thêm vào đó, để giảm thiếu số đồ phụ tùng dự trữ phải mang theo trên tàu Goya, tất cả các van trên tàu Triton đều cùng một loại. Có thể tháo van ở ống khí cao áp ra rồi lắp vào bộ phận điều khí cấp cứu bên phải thành tàu! Tăng áp suất như thế sẽ làm cho cơ thể Rachel vô cùng đau đớn, nhưng cũng có thể mở ra một con đường sống.
Tolland hít hơi thật sâu và lặn xuống.
Lúc này con tàu đã cách mặt nước gần hai mét rưỡi, và dòng hải lưu cùng với bóng tối khiến ông phải vất vả mới xác định được phương hướng, tìm được bể khí áp cao. Tolland nhanh chóng lắp vòi khí sang chỗ khác để chuẩn bị bơm khí vào khoang lái. Chạm tay vào miệng van, ông thấy một hàng chữ viết bằng sơn phản quang, và biết việc làm này nguy hiểm đến mức nào. CHÚ Ý: KHÍ NÉN - 3000 PSI.
Ba ngàn pound trên một inch vuông, Tolland suy tính. Hi vọng rằng áp suất sẽ khiến cho cửa quan sát bị bung ra trước khi Rachel bị dập nát phổi. Tolland nối vòi rồng dập lửa vào khoang lái của chiếc tàu ngầm với hi vọng rằng khoang lái sẽ nhanh chóng bị bật tung ta.
Ông chụp lấy khoá van, hạ quyết tâm. Lơ lửng trong nước, ở đằng sau khoang lái của tàu Triton, Tolland vặn khoá, mở van. Ngay lập tức cái vòi căng phồng lên, Tolland nghe tiếng khí tràn vào trong khoang lái với tốc độ cực cao.
Bên trong tàu Traton, Rachel chợt cảm thấy một cơn đau buốt nhới thọc mạnh khắp toàn thân. Cô hé môi, nhưng tiếng thét đau đớn chưa kịp bật ra thì không khí đã xộc mạnh vào, ép mạnh đến mức tưởng là hai lá phổi sắp nổ tung ra. Hai mắt như bị ấn sau mãi vào tận hộp sọ. Những tiếng ùng ùng vang rền trong tai, Rachel tưởng như sắp ngất lịm đi. Theo bản năng, cô nhắm nghiền mắt lại, lấy hai tay bịt chặt lỗ tai. Cảm giác đau đớn vẫn tiếp tục tăng thêm.
Rachel nghe tiếng đập thình thình ngay trước mặt. Cô dùng hết ý chí, hé hai mi mắt chỉ đủ để trông thấy bóng ma của Tolland trong nước biển tối sẫm. Mặt ông áp sát vào lớp vỏ tàu bằng kính.
Tolland đang ra hiệu bảo cô làm gì đó.
Cái gì nhỉ?
Phải thật căng mắt Rachel mới nhìn thấy Tolland trong bóng đêm đen kịt. Bị sức ép quá lớn, đồng tử của cô dường như đã biến dạng. Tuy thế, cô vẫn biết con tàu nhỏ đã chìm sâu xuống dưới quầng sáng phát ra từ tàu Goya. Khắp xung quanh lúc này chỉ còn một màu đen thăm thẳm.
Tolland bám vào vỏ tàu Triton, tiếp tục đập mạnh vào kính. Long ngực đau tức vì thiếu dưỡng khí. Ông biết một vài giây nữa thôi, ông sẽ phải nổi lên để lay hơi.
Đẩy mạnh vỏ kính đi! - ông ra lệnh cho Rachel bằng ánh mắt.
Tiếng bong bóng khí xì ra qua khe hở nghe rất rõ. Lớp gioăng đệm đã bị bục ra ở một điểm nào đó. Tolland lần lần khắp mép cửa sổ quan sát tìm một chỗ vênh lên để chêm ngón tay vào. Không thấy gì hết.
Phổi hết sạch dưỡng khí, tầm nhìn đã hẹp hẳn lại, ông đập mạnh vỏ kính con tàu thêm một lần cuối cùng. Lúc này đã không còn trông thấy Rachel được nữa. Tối đen như mực. Tận dụng chút dưỡng khí cuối cùng còn lại trong phổi, ông hét to:
Rachel… phá… vỏ… kính… đi!
Những lời nói ấy không phát thành tiếng, chỉ là những bọt khí nổi lên.



***Xem trang:
[1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15][16][17][18][19][20]
[21][22][23][24][25][26][27][28][29][30][31][32][33][34][35][36][37][38][39][40][41][42][43]

TOP WAP WORLDWIDE


mobiV trang ch

© GIAITRI102.TK
Thanks to XTGEM