Duck hunt
Không bấm vùng phía trên kẻo mất tiền nhé!

Đài tưởng niệm Franklin Delano Roosevelt là một trong những đài tưởng niệm lớn nhất trên toàn nước Mỹ. Với công viên, thác nước nhân tạo; bức tượng, những mảng tường uốn cong, đài tưởng niệm được chia thành bốn khu vực trưng bày ngoài trời, mỗi khu tượng trưng cho một nhiệm kỳ Tổng thống của FDR.
Cách đài tưởng niệm một dặm, chiếc trực thăng Kiowa Wamor đang trườn tới, tất cả đèn trên máy bay đều bị tắt. Ở một thành phố vốn vẫn tự hào là nơi tập trung nhiều VIP và các phóng viên báo chí như thủ đô Washington, trực thăng trên trời nhiều như những bầy chim di trú đang bay về phương nam. Delta-Một biết rằng nếu họ tránh được khu "mái vòm" - vừng trời xung quanh Nhà Trắng được lực lượng phòng không bảo vệ - thì họ sẽ không bị chú ý. Dù sao thì họ cũng chẳng ở đây lâu.
Chiếc phi cơ giảm dần tốc độ khi đến gần đài tưởng niệm FDR. Delta-Một cho máy bay lượn vòng tròn, kiểm tra lại vị trí của mình. Anh liếc sang bên trái, thấy Delta-Hai đang điều chỉnh kính viễn vọng nhìn trong bóng tối. Trên màn hình video, lối vào đài tưởng niệm hiện lên. Không một bóng người.
Họ sẽ đợi một lát.
Đây sẽ không phải là vụ ám sát lặng lẽ. Có những nhân vật không thể bị giết một cách lặng lẽ. Dù có sử dụng cách thức nào đi nữa, vẫn có những tác động ngược trở lại. Những cuộc điều tra. Những buổi thẩm vấn. Vì thế, cách nguỵ trang tốt nhất là gây ra nhiều tiếng động. Những tiếng nổ, lửa, và khói khiến người ta nghĩ đến bọn khủng bố quốc tế, những kẻ giết người công khai. Đặc biệt trong trường hợp mục tiêu là một nhân vật cấp cao.
Delta-Một nhìn kỹ cảnh đài tưởng niệm um tùm cây cối trong đêm trên màn hình video. Cả khu đỗ xe lẫn lối vào đều vắng người. Nhanh thôi mà, anh thầm nghĩ. Điểm gặp gỡ này, dù ở giữa lòng thành phố, vào giờ này vắng vẻ bất ngờ. Delta-Một quay sang nhìn thiết bị điều khiển vũ khí của mình.
Hệ thống Hellfire quả là loại vũ khí thích hợp với nhiệm vụ tối nay. Là loại tên lửa chống xe bọc thép, được dẫn đường bằng tia laze, Hellfire cho phép "bắn - rồi – quên". Đạn phóng ra sẽ nhằm thẳng tới một chùm tia laze chiếu ra từ đài quan sát trên mặt đất, trên máy bay, hay từ chính chiếc máy bay phóng tên lửa. Đêm nay quả tên lửa này sẽ được dẫn đường bằng bộ phận chiếu tia laze gắn ở đầu ăng ten máy bay. Sau khi máy bay Kaiowa chiếu một chùm laze thẳng vào mục tiêu, tên lửa Hellfire sẽ tự tìm đường. Vì loại tên lửa này có thể được phóng từ cả trên mặt đất lẫn trên máy bay, vết tích của nó ở đây không nhất thiết phải liên quan tới một máy bay. Thêm vào đó, loại tên lửa này trôi nổi khá nhiều ngoài chợ đen, nên người ta có thể đổ lỗi cho bọn khủng bố.
- Xe mui kín. - Delta-Hai nói.
Delta-Một liếc nhìn màn hình video. Một chiếc xe mui kín màu đen sang trọng đang tiến vào lối rẽ đúng vào giờ đã định. Đây là loại xe dùng chung của các cơ quan Chính phủ. Vào đến gần đài tưởng niệm, người lái xe tắt đèn pha. Chiếc xe lượn vài vòng rồi đỗ cạnh một lùm cây. Delta-Một quan sát trên màn hình trong khi đồng đội của anh hướng ống kính viễn vọng vào cửa bên của chiếc xe. Sau một tích tắc, khuôn mặt người lái xe chiếm trọn màn hình.
Delta-Một thở gấp.
- Mục tiêu được xác định. - Delta-Hai nói.
Delta-Một nhìn màn hình lần nữa - vẻ mặt của nhân vật này hiện lên rõ mồn một trên màn hình. - anh chợt tưởng như mình là tay bắn tỉa đang chĩa nòng súng vào một thành viên của hoàng gia.
Mục tiêu được xác định.
Delta-Hai quay sang thiết bị điện tử đặt bên trái anh và kích hoạt máy chiếu tia laze. Anh ngắm bắn, và dưới mặt đất, cách họ hai ngàn foot, một chấm sáng rất nhỏ xuất hiện trên nóc xe mà người ngồi trong không hề hay biết.
- Mục tiêu đã được chiếu laze. - Delta-Hai tuyên bố.
Delta-Một hít một hơi thật sâu. Anh nhấn nút, khai hoả.
Dưới thân máy bay, một tiếng xì mạnh vang lên ngay tức thì, tiếp theo đó là luồng sáng nhạt di chuyển rất nhanh xuống mặt đất.
Một giây sau, chiếc xe tan thành từng mảnh trong muôn vàn lưỡi lửa. Mảnh kim loại méo mó văng khắp nơi. Lốp xe bắt lửa lăn vào lùm cây.
- Nhiệm vụ đã hoàn tất., Delta-Một nói, cho máy bay rút khỏi hiện trường. - Gọi chỉ huy đi.
Cách đó không đầy hai dặm, Tổng thống Zach Herney đang chuẩn bị đi ngủ. Kính của cửa sổ chống đạn Lexan cạnh giường ông dầy đến một inch. Herney không hề nghe thấy tiếng nổ.
97.
Sân bay của đội cứu hộ bờ biển Atlantic toạ lạc ở một nơi được canh gác cẩn mật bên trong Trạm không lưu Liên bang William J. Hughes đặt tại sân bay quốc tế thành phố Atlantic. Trạm này phụ trách toàn bộ khu vực thềm lục địa Atlantic từ Asbury Park đến tận Cape May.
Rachel Sexton bừng tỉnh khi bánh máy bay kêu ken két trên đường băng trải nhựa nằm lọt giữa hai toà nhà lớn. Ngạc nhiên thấy mình đã ngủ thiếp đi, cô giơ tay xem đồng hồ.
Hai giờ mười ba phút. Rachel tưởng như cô đã ngủ mê mệt không biết bao lâu.
Ai đó đã quấn quanh người cô tấm chăn ấm áp, và bên cạnh cô, Michael Tolland cũng vừa tỉnh dậy. Ông nhìn cô, mỉm cười, vẻ mệt mỏi.
Corky loạng choạng bước dọc lối đi, nhăn nhó khi nhìn thấy họ.
- Khỉ thật, hai người vẫn còn ở đây à? Giá như đêm nay chỉ là một giấc mộng thì hay quá.
Rachel hoàn toàn thông cảm với ông ta. Mình lại phải ra biển.
Máy bay dừng hẳn, cùng hai nhà khoa học, Rachel bước xuống đường băng. Trời đầy mây, nhưng gió biển ấm áp thổi khá mạnh.
So với Ellesmere thì New Jersey chẳng khác gì vùng nhiệt đới.
- Đằng này! - Có người gọi to.
Cả ba quay lại và thấy chiếc máy bay HH-65 Dolphin màu đỏ sẫm, loại máy bay chuyên dụng của đội cứu hộ trên biển, đang đợi sẵn. Một viên phi công nai nịt sẵn sàng, đứng cạnh đuôi máy bay, đang đưa tay vẫy.
Tolland gật đầu nhìn Rachel vẻ thán phục:
- Sếp của cô quả là chu đáo.
Anh chưa biết ông ấy là người thế nào đâu, cô nghĩ.
Corky ngồi sụp xuống:
- Đi luôn à? Không được ăn uống gì sao?
Người phi công chào hỏi niềm nở, sau đó giúp họ leo lên máy bay. Không cần hỏi tên tuổi của họ, anh ta cứ bô bô trò chuyện.
Chắc hẳn Pickering đã nói rõ với đội cứu hộ rằng đây không phải là chuyến bay công khai. Tuy nhiên, bất chấp chỉ thị của ông, Rachel nhận thấy bí mật về danh tính của họ chỉ kéo dài được vài giây. Người phi công trợn tròn mắt, không giấu nổi vẻ kinh ngạc khi thấy Michael Tolland, ngôi sao truyền hình nổi tiếng.
Thắt đai an toàn, ngồi xuống cạnh Tolland, Rachel bắt đầu cảm thấy căng thẳng. Loại động cơ Aerospatiale trên đầu họ bắt đầu rú lên, những cánh quạt Dolphin dài 39 foot bắt đầu quay tít. Động cơ tiếp tục gầm rú to hơn nữa, và chiếc máy bay rời đường băng, bay vào bầu trời đêm.
Viên phi công thò đầu vào trong khoang và nói lớn;
- Tôi được thông báo là các vị sẽ cho biết đích đến sau khi chúng ta cất cánh.
Tolland cho anh ta biết toạ độ chính xác của một vị trí cách sân bay khoảng ba mươi dặm về hướng đông nam. Tàu của anh ấy ở cách bờ mười hai dặm, Rachel thầm nghĩ, rùng mình.
Anh chàng phi công nhập toạ độ vào hệ thống định vị của máy bay. Sau đó anh ta điều chính một số nút bấm và cần gạt. Chiếc máy bay lao thẳng về hướng đông nam.
Khi những đụn cát trên bờ biển New Jersey đã lùi về phía sau, Rachel quay mặt đi, không muốn nhìn đại dương tối sẫm trải rộng bên dừới máy bay. Dù rất lo lắng khi phải ra biển lần nữa, cô cố an ủi mình rằng bên cạnh cô là người suốt đời coi đại dương là bạn thân. Tolland ngồi sát cạnh cô trong khoang máy bay chật chội, vai và hông của hai người bị ép vào nhau. Nhưng chẳng ai tỏ vẻ muốn thay đổi tư thế.
- Tôi biết là không nên nói ra, - đột nhiên viên phi công thốt lên, nhưng chắc chắn anh là Michael Tolland, chắc chắn thế, anh xuất hiện trên tivi suốt cả đêm! Tảng thiên thạch ấy mà! Không thể tin nổi! Chắc anh phải kinh ngạc lắm!
Tolland kiên nhẫn gật đầu:
- Đến nỗi không thốt nên lời.
- Đoạn phim tài liệu thật tuyệt vời! Anh biết không, các đài truyền hình thay nhau phát lại. Đêm nay chẳng phi công nào muốn cất cánh ai cũng muốn ngồi nhà xem tivi, chúng tôi phải bốc thăm! Anh có tin nổi không! Bốc thăm! Và thế đấy! Nếu cánh phi công mà biết tôi đang chở ai thì…
- Chúng tôi đánh giá cao tinh thần trách nhiệm của anh, Rachel xen ngang, - nhưng việc chúng tôi có mặt ở đây thì chỉ mình anh được biết thôi. Anh không được nói cho bất kỳ ai khác.
- Dĩ nhiên rồi, thưa cô. Chỉ huy cũng đã nói thế. - Anh ta do dự một lát, rồi mắt lại sáng lên. - Này, có phải chúng ta đang bay tới con tàu Goya không?
Tolland miễn cưỡng gật đầu.
- Đúng thế.
Chúa thật! - Anh ta thốt lên. - Xin lỗi anh nhé, nhưng tôi đã nhìn thấy con tàu ấy trong các chương trình của anh. Nó có hai thân song song, phải không nhỉ? Con quái vật kỳ dị! Tôi chưa bao giờ được đặt chân lên tàu ngầm. Không ngờ bây giờ lại được lên hẳn tàu của anh!
Rachel không nói gì, càng xa bờ cô càng cảm thấy bất an.
Tolland quay sang nhìn Rachel.
- Không sao chứ? Cô ở trên bờ cũng được. Tôi bảo từ nãy rồi mà.
Đáng ra mình nên ở lại trên bờ, Rachel nghĩ, lòng thầm biết cô không mặt mũi nào mà làm thế.
- Không sao, cảm ơn anh. Tôi không sao.
Tolland mỉm cười.
- Tôi sẽ trông chừng cho cô.
- Cảm ơn anh. - Rachel ngạc nhiên thấy giọng nói ấm áp của ông làm cô cảm thấy an tâm hơn hẳn.
- Cô đã trông thấy con tàu Goya trên tivi rồi đúng không?
Cô gật đầu.
- Quả là… trông…, khá hấp dẫn.
Tolland cười lớn:
- Đúng thế. Hồi đầu nó là hình mẫu vô cùng hiện đại, nhưng vẻ ngoài của nó quả có hơi kì dị.
- Chẳng giống một ai. - Rachel nói đùa, nghĩ đến hình dáng khác thường của con tàu.
- Hiện nay đài NBC đang giục tôi chuyển sang sử dụng con tàu mới. Có lẽ… tôi cũng chẳng biết nữa, trông đẹp hơn, hào nhoáng hơn. Một hai năm nữa, họ sẽ bắt tôi phải chia tay Goya. - Giọng Tolland đầy tư lự.
- Anh không thích có tàu mới ư?
- Tôi chẳng biết nữa… Tàu Goya gắn bó với tôi bao kỉ niệm.
Rachel cười mỉm:
- Mẹ tôi thường nói rằng sớm muộn gì chúng ta cũng phải để quá khứ lại sau lưng.
Ánh mắt hai người tình cờ gặp nhau.
- Ừ, chắc phải như vậy thôi Tolland nói.
98.
- Khỉ thật. - Người lái xe tắc xi quay lại nói với Gabrielle. - Hình như đằng trước có tai nạn. Lại không đi được rồi. Chắc cũng lâu đấy.
Gabrielle nhìn ra ngoài và thấy những chớp sáng từ đèn xe cấp cứu loé lên trong đêm tối. Mấy nhân viên cảnh sát đang đứng phía trước, chặn tất cả mọi xe cộ qua lại xung quanh khu đài tưởng niệm.
- Chắc tai nạn phải khủng khiếp lắm. - Người lái xe nói, tay chỉ những lưỡi lửa vẫn đang bốc cao trong đài tưởng niệm FDR.
Gabrielle nhìn những ngọn lửa đang cháy lem lém, nhíu mày.
- Lại đúng vào lúc này cơ chứ. - Cô muốn báo ngay cho Thượng nghị sĩ thông tin vừa có được về PODS và nhà địa chất học Canada. Cô thầm băn khoăn không hiểu vụ ầm ỹ này có đủ để mang lại sinh khí cho chiến dịch bầu cử của Thượng nghị sĩ hay không. Có thể đối với những chính trị gia khác thì vẫn là chưa đi - cô thầm nghĩ, nhưng Sedgewick Sexton là người dựa trên khiếm khuyết và thất bại của kẻ khác để xây dựng cương lĩnh chính trị của mình.
Dù Gabrielle chưa bao giờ thán phục cách Thượng nghị sĩ biến những khiếm khuyết về nhân cách của đối thủ thành những lợi thế chính trị của bản thân, nhưng phải thừa nhận rằng đó là cách thức lợi hại. Với miệng lưỡi sắc sảo, Sexton có thể làm cho hành vi thiếu trung thực này của NASA biến thành cả một vấn đề trầm trọng liên quan đến tư cách của người đứng đầu NASA và một cách gián tiếp, đến cả Tổng thống.
Ngoài kia, lửa tiếp tục bốc cao thêm trong khu vực tưởng niệm FDR. Một số cây to đã bắt lửa, và lính cứu hoả đang ra sức phun nước. Người lái taxi ấn nút bật đàì, và đang dò sóng.
Thở dài, Gabrielle ngả người trên ghế, cảm nhận sự mệt mỏi đang lan đến từng chân tơ kẽ tóc. Hồi mới đặt chân đến Washington, cô đã dự định sẽ làm chính trị cả đời, thậm chí cả trong Nhà Trắng. Ấy thế mà giây phút này, cô cảm tưởng như đã chán ngán tất cả - cuộc đấu trí với Marjorie Tench, những bức ảnh chụp cô và Thượng nghị sĩ ăn nằm với nhau, những lời dối trá của NASA…
Phát thanh viên trên đài đang đưa tin về một vụ đánh bom và những suy đoán về khủng bố.
Mình phải đi khỏi thành phố này thôi, cô nghĩ, lần đầu tiên kể từ giây phút đặt chân đến thủ đô của nước Mỹ.


Chỉ huy rất hiếm khi thấy mệt mỏi, nhưng ngày hôm nay quả là nhiều thương vong. Không một chi tiết nào diễn ra đúng như dự định - quá trình khoan phiến băng để đưa tảng thiên thạch vào lòng băng hà, những khó khăn nảy sinh trong khâu bảo vệ bí mật, và bây giờ là số lượng nạn nhân tăng không ngừng.
Đáng ra không một ai phải chết… trừ người Canada đó.
Thật mỉa mai, chi tiết kỹ thuật khó thực hiện nhất hoá ra lại êm xuôi nhất. Việc đưa tảng đá vào giữa lòng phiến băng được hoàn tất từ trước đó vài tháng mà không gặp bất kỳ trở ngại nào. Sau khi mọi sự đã hoàn tất, chỉ cần đợi vệ tinh PODS được phóng lên quỹ đạo vệ tinh chụp cắt lớp độ đậm đặc Cực Bắc này có nhiệm vụ quản sát những khu vực rộng lớn ở vùng Cực Bắc, và không sớm thì muộn, phần mềm trên vệ tinh sẽ phát hiện ra tảng thiên thạch, và NASA sẽ được biếu không một phát kiến quan trọng.
Nhưng phần mềm chết tiệt đó không hoạt động được.
Khi chỉ huy được thông báo rằng phần mềm phát hiện những dị thường về độ đậm đặc của PODS bị lỗi và phải đợi đến sau kỳ bầu cử thì mới khắc phục xong, toàn bộ kế hoạch có nguy cơ bị phá sản. Không có PODS, tảng thiên thạch sẽ âm thầm nằm trong lòng băng tuyết. Thế là chỉ huy phải tìm cách báo cho người của NASA biết về tảng thiên thạch đó. Giải pháp được lựa chọn là giả danh nhà địa chất học người Canada để thông báo vị trí của tảng thiên thạch. Dĩ nhiên là phải giết nhà khoa học đó ngay lập tức rồi dàn cảnh một vụ tai nạn. Quăng nhà địa chất học vô tội từ trên trực thăng xuống mới chỉ là bước khởi đầu. Lúc này, sự thật có nguy cơ nhanh chóng bị bại lộ.
Wailee Ming. Norah Mangor. Cả hai đều đã chết.
Vụ sát hại dã man tại đài tưởng niệm FDR.
Chẳng mấy chốc nữa sẽ đến lượt Rachel Sexton, Michael Tolland, và tiến sĩ Marlinson.
Không còn cách nào khác, chỉ huy thầm nghĩ, cố dằn cảm giác hối hận đang dâng lên trong lòng. Nếu không thì cái giá phải trả sẽ còn lớn hơn nhiều…
100.
Khi chiếc máy bay Dolphin của đội cứu hộ bờ biển còn cách chiếc tàu Goya những hai dặm, Tolland đã gọi người phi công.
- Máy bay của anh có trang bị thiết bị nhìn xuyên đêm NightSight không?
Người phi công gật đầu:
- Chúng tôi được trang bị đầy đủ!
Tolland không mong gì hơn. NightSight là thiết bị chụp ảnh cảm ứng nhiệt của hãng Raytheon, cho phép xác định được những người còn sống sót sau khi đắm tàu trong đêm tối. Hơi ấm toả ra từ đầu của nạn nhân sẽ hiện lên như một chấm đỏ trên nền đại dương đen thẫm.
- Bật lên đi. - Tolland bảo anh ta.
Người phi công thắc mắc:
- Anh muốn tìm người dưới biển sao?
- Không, tôi muốn xem cái này.
- Ở độ cao này thì chẳng nhìn thấy gì đâu, trừ phi dưới kia có một vệt dầu loang đang bốc cháy.
- Anh cứ bật lên đã nào. - Tolland khăng khăng.
Người phi công ném về phía Tolland ánh mắt khó chịu, rồi ấn mấy cái nút, điều chỉnh vài cái cần, chỉnh ống kính cảm ứng nhiệt lắp dưới bụng máy bay để nhìn bao quát vùng biển có đường kính ba dặm trước mặt họ. Màn hình LCD trên bảng điều khiển trước mặt anh ta sáng lên. Ảnh cảm ứng nhiệt được chuyển ngay.
- Ái chà chà! - Máy bay hơi tròng trành mất mấy giây khi anh ta co người lại vì kinh ngạc, rồi bình tĩnh lại và ngồi thẳng dậy, chăm chú nhìn màn hình.
Rachel và Corky nhoài hẳn người về phía màn hình, không kém phần ngạc nhiên. Trên nền đại dương đen thẫm là một vòng xoáy lớn màu đỏ sáng loè.
Rachel bối rối quay sang Tolland:
- Trông như một xoáy nước vậy.
- Nó đấy. - Tolland đáp - một dòng hải lưu ấm chảy xoáy.
- Đường kính của nó phải đến nửa dặm.
Anh chàng phi công cứu hộ ồ lên kinh ngạc:
- Dòng xoáy này lớn thật. Thỉnh thoảng chúng tôi cũng gặp xoáy nước ấm, nhưng chưa thấy cái xoáy nào rộng đến mức này.
- Nó mới xuất hiện tuần trước, - Tolland giải thích - chắc chỉ vài hôm nữa là biến mất.
- Cái gì tạo nên xoáy nước này? - Rachel hỏi, bối rối thấy một xoáy nước lớn đến thế giữa lòng đại dương.
- Magma đấy. - Viên phi công nói.
Rachel quay sang Tolland, giọng lo lắng:
- Có núi lửa sao?
- Không. - Tolland đáp. – Bờ biển phía đông không có núi lửa nào cả, mà thỉnh thoảng chỉ có những túi đá nhão xuất hiện dưới đáy biển, tạo ra những vùng nước nóng mà thôi. Vì những túi nước nóng đó, một gradien nhiệt độ đảo ngược xuất hiện - nước nóng ở dưới đáy trong khi nước mát lại ở bên trên. Do đó mà có những xoáy nước nóng lớn thế này. Chúng được gọi là các megaplume. Những xoáy nước này chỉ hoạt động trong khoảng một hai tuần rồi sẽ biến mất.
Người phi công quan sát xoáy nước nóng đang chảy trên màn hình.
- Trông xoáy nước này có vẻ còn mạnh lắm. - Anh ta ngừng lại một lát, kiểm tra lại toạ độ mà tàu ngầm của Tolland đang neo đậu, rồi quay lại, vẻ ngạc nhiên:
- Anh Tolland này, hình như con tàu của anh đang thả neo rất gần trung tâm dòng xoáy này thì phải.
Tolland gật đầu.
- Gần trung tâm thì tốc độ dòng chảy có chậm hơn đôi chút. - Mười tám hải lí. Gần giống như thả neo trên một dòng sông chảy xiết. Những dây néo của chúng tôi đã bị kéo căng suốt cả tuần vừa rồi.
- Lạy Chúa tôi. - Viên phi công nói. - Hải lưu có tốc độ mười tám hải lý! Ngã một cái là xong! - Anh ta phá lên cười.
Rachel không cười nổi.
- Mike này, không hề thấy anh nhắc gì đến túi đá nhão, megaplum hay dòng hải lưu nóng nào hết.
Ông đặt tay lên đầu gối, cô động viên:
- An toàn tuyệt đối, cứ tin ở tôi.
Rachel nhíu mày:
- Tức là các anh đang quay phim về megaplume này à?
- Megaplume và sphyrna mokarranan.
- Đúng đấy, tôi đã nghe thấy anh nói đến thứ đó!
Tolland mỉm cười bẽn lẽn:
- Sphyrna mokarranan rất thích nước ấm, và ngay lúc này, trải dài khắp một trăm dặm quanh đây, chúng đang tập trung vô cùng đông đúc.
- Hay thật. - Rachel gật đầu, không chút thoải mái. - Và chúng thế nào? Lũ sphyrna mokarranan ấy?
- Loài cá xấu xí nhất đại dương.
- Giống cá bơn à?
Tolland cười lớn:
- Cá mập đầu búa.
Rachel sợ cứng người:
- Quanh tàu của anh có cá mập đầu búa à?
Tolland nháy mắt:
- Bình tĩnh nào, chúng không nguy hiểm đâu mà.
- Nếu chúng không nguy hiểm thì anh đã chẳng phải nói vậy.
Tolland cười ha hả:
- Chắc cũng đại loại như thế. - Ông tinh nghịch gọi người phi công - Này, kể từ lần gần đây nhất mà các anh cứu được người nào bị cá mập đầu búa tấn công đến nay là bao lâu rồi?



***Xem trang:
[1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15][16][17][18][19][20]
[21][22][23][24][25][26][27][28][29][30][31][32][33][34][35][36][37][38][39][40][41][42][43]

TOP WAP WORLDWIDE


mobiV trang ch

© GIAITRI102.TK
Thanks to XTGEM