Insane
Không bấm vùng phía trên kẻo mất tiền nhé!

Trên đường đi ăn trưa, Jennifer dừng lại trước cửa phòng xử án vắng lặng. Cô không thể cưỡng lại ý muốn bước vào đó một lát.
Mỗi bên cánh gà có 15 hàng ghế dành cho những người dự xử án. Đối diện với ghế quan tòa là hai chiếc bàn dài, chiếc bên trái có hàng chữ nguyên cáo, chiếc bên phải dành cho bị cáo. Lô của hội đồng xử án gồm hai hàng ghế, mỗi hàng có tám cái. Đây là một căn phòng xử án bình thường, Jennifer nghĩ, đơn giản thậm chí còn xấu xí nữa, nhưng đó là trái tim của tự do. Căn phòng này cũng như tất cả các phòng xử án tương tự, thể hiện sụ khác nhau giữa văn minh và dã man. Quyền được xét xử tại tòa án là cốt lỗi của tất cả các quốc gia tự do. Jennifer nghĩ đến những nơi khác trên thế giới, nơi không có phòng xử án, nơi mà những công dân bình thường bị dựng cổ vào lúc nửa đêm, bị tra tấn và thủ tiêu mà không có lý do cụ thể nào hết.
Nếu như có lúc nào đó, các tòa án ở Mỹ bị tước bỏ quyền lực của mình, Jennifer nghĩ, nếu công dân của nước Mỹ bị tước quyền được xét xử bởi một tòa án, lúc ấy nước Mỹ sẽ không còn là một quốc gia tự do nữa.
Giờ đây, cô là một bộ phận của hệ thống pháp luật và cô rất tự hào về điều đó. Cô sẵn sàng làm mọi thứ để tôn trọng và bảo vệ hệ thống đó.
Khi Jennifer bước ra khỏi phòng xử án, cô để ý thấy có những tiếng ồn ào từ xa vọng lại. Chúng trở nên rõ ràng và to hơn khi Jennifer tiếp tục đi. Chuông báo động bắt đầu réo. Jennifer nghe thấy tiếng chân chạy vội vã dọc hành lang và nhìn thấy nhiều cảnh sát súng lăm lăm trong tay lao ra phía cửa ra vào của khu xử án. Chắc Michael Moretti trốn mất rồi, Jennifer sực nghĩ. Cô bước vội ra ngoài hành lang, khung cảnh ở đó cực kỳ hỗn loạn. Mọi người chạy đi chạy lại rối rít, quát tháo, ra lệnh giữa tiếng ồn của chuông báo động. Lính gác chặn hết các cửa ra. Các phóng viên đang gọi điện về tòa báo cũng ùa ra hành lang để xem điều gì đã xảy ra. Jennifer nhìn thấy chưởng lý Robert Di Silva ở phía cuối căn phòng. Ông ta đang giận dữ ra lệnh cho một toán cảnh sát, mặt ông trông tái nhợt.
Trời đất! Jennifer nghĩ, ông ta chắc sắp bị đau tim.
Cô xô đẩy đám đông để đi về phía ông ta, hy vọng có thể giúp ông phần nào. Khi cô đến gần, một viên cảnh sát canh giữ Camillo Stela nhìn lên và trông thấy cô.
Anh ta chỉ tay về phía cô và chỉ năm giây sau Jennifer Parker thấy mình bị giữ lại, trói giật cánh khuỷu và bị tuyên bố bắt giữ.
***
Có bốn người trong phòng của chánh án Lawrence Waldman: Chánh án Waldman, chưởng lý Robert Di Silva, Thomas Colfax và Jennifer.
- Cô có quyền yêu cầu một luật sư hiện diện ở đây trước khi cô tuyên bố bất cứ điều gì, - chánh án Waldman thông báo cho Jennifer, - và cô có quyền không trả lời nếu cô…"
- Tôi không cần luật sư, thưa ngài. Tôi có thể giải thích những gì đã xảy ra.
Robert Di Silva ghé sát Jennifer đến nỗi cô có thể thấy rõ mạch máu ở thái dương ông ta đang đập mạnh:
- Ai đã đưa tiền cho cô để cô đưa cái bọc đó cho Camillo Stela?
- Đưa tiền cho tôi? Làm gì có ai đưa tiền cho tôi, - giọng Jennifer run lên vì phẫn uất.
Di Silva nhặt chiếc phong bì to trên bàn của chánh án Waldman:
- Không ai đưa tiền cho cô. Cô chỉ đến chỗ nhân chứng của tôi và đưa cho anh ta cái này sao?
Ông ta rũ mạnh chiếc phong bì và xác một con chim hoàng yến rơi xuống bàn. Nó đã bị bẻ gãy cổ.
Jennifer nhìn chằm chằm vào con chim chết, hoảng sợ:
- Tôi… một người của ngài đã đưa nó cho tôi.
- Người nào của tôi?
- Tôi… tôi không biết.
- Thế mà cô lại biết rằng đó là người của tôi. - Giọng ông ta đầy vẻ hoài nghi.
- Vâng. - Tôi thấy anh ta nói chuyện với ngài rồi sau đó anh ta đến chỗ tôi và đưa tôi chiếc phong bì. Anh ta nói rằng ngài muốn tôi đưa nó cho ông Stela. Anh ta thậm chí còn biết cả tên tôi nữa.
- Tôi cuộc là hắn biết. Hắn đã trả cô bao nhiêu tiền?
Tất cả chỉ là một cơn ác mộng. Jennifer nghĩ. Mình sẽ tỉnh lại ngay bây giờ và lúc đó sẽ là 6 giờ sáng. Mình sẽ mặc quần áo và đến tuyên thệ ở phòng nhân viên của chưởng lý.
- Bao nhiêu? - Di Silva quát lên. Cơn giận dữ của ông ta mạnh đến mức làm cho Jennifer đứng bật dậy.
- Ngài buộc tội tôi về việc…
- Buộc tội cô à, - Robert Di Silva nắm chặt bàn tay. - Thưa cô, tôi chưa làm việc đó đâu. Nhưng đến khi cô ra tù, cô sẽ quá già để có thể tiêu xài số tiền đó!
- Không có tiền nong gì cả. - Jennifer nhìn ông ta một cách thách thức.
Thomas Colfax vẫn ngồi yên từ nãy đến giờ, chăm chú theo dõi câu chuyện. Bất chợt ông ta nói xen vào:
- Xin lỗi, thưa ngài chánh án, nhưng tôi e rằng chúng ta sẽ không đi đến đâu cả nếu cứ tiếp tục theo kiểu này.
- Tôi đồng ý, - chánh án Waldman đáp. Ông ta quay sang chưởng lý. - Anh đang ở đâu vậy, Bobby? Stela có còn sẵn sàng ra đối chứng nữa không?
- Đối chứng gì nữa? Hắn ta sợ phát rồ lên rồi. Hắn không còn dám ra làm chứng nữa đâu.
Thomas Colfax nói một cách trôi chảy:
- Nếu tôi không thể đối chất nhân chứng chính của bên nguyên, thưa ngài chánh án, tôi sẽ phải yêu cầu xoá bỏ phiên tòa.
Mọi người trong căn phòng đều hiểu điều đó có nghĩa như thế nào: Michael Moretti sẽ ra khỏi phòng xử án với tư cách một người tự do.
Chánh án Waldman nhìn qua chưởng lý:
- Anh có nói cho nhân chứng của mình là hắn sẽ bị xử thêm vì tội không tuân lệnh tòa không?
- Tôi đã nói rồi. Nhưng Stela sợ bọn chúng hơn là sợ chúng ta. - Ông căm phẫn nhìn sang Jennifer. - Hắn ta không tin rằng chúng ta có thể bảo vệ được hắn nữa.
Chánh án Waldman nói chậm rãi:
- Nếu vậy tôi sợ rằng tòa không có cách nào khác là phải làm theo yêu cầu của luật sư của bị cáo, và tuyên bố xoá bỏ phiên tòa.
Robert Di Silva đứng đó, lắng nghe người ta nói về thất bại của mình. Không có Stela, ông ta không thể buộc tội được. Michael Moretti bây giờ đã ở ngoài vòng kiểm soát của ông ta, nhưng Jennifer Parker thì chưa. Ông ta sẽ bắt cô phải trả giá về việc cô đã làm.
Chánh án Waldman nói:
- Tôi sẽ ra lệnh thả bị cáo và hủy bỏ phiên tòa.
Thomas Colfax đứng dậy:
- Cám ơn ngài chánh án.
Không có dấu hiệu đắc thắng nào trên khuôn mặt ông.
- Nếu không còn việc gì nữa…, - chánh án Waldman tiếp tục.
- Còn một việc nữa, - Robert Di Silva nói và quay sang Jennifer Parker. - Tôi muốn buộc tội cô ta về việc ngăn cản thực hiện công lý, đe doạ nhân chứng trong một vụ án quan trọng, về việc nhận hối lộ, về… - ông ta nghẹn giọng vì giận dữ.
Jennifer tức giận đập lại:
- Ông không thể chứng minh cho bất kỳ một lời buộc tội nào của ông, đơn giản vì chúng không đúng sự thật. Tôi… tôi có thể có tội là đã tỏ ra ngu ngốc, nhưng đó là tất cả tội lỗi của tôi. Không ai đút lót tôi để làm việc gì cả. Tôi đã cho rằng tôi cần chuyển một gói đồ hộ ông.
Chánh án Waldman nhìn Jennifer và nói:
- Dù động cơ là thế nào đi chăng nữa, hậu quả là hết sức nghiêm trọng. Tôi sẽ yêu cầu Uỷ ban kiểm tra tư cách luật gia điều tra vụ này và nếu Uỷ ban đó thấy đủ chứng cứ, họ sẽ tước quyền hành nghề luật sư của cô.
Jennifer thấy tim mình đau nhói:
- Thưa ngài chánh án tôi…
- Chúng ta hãy kết thúc ở đây, cô Parker.
Jennifer đứng lặng đi một lát, nhìn chằm chằm vào những khuôn mặt đầy ác cảm quanh cô. Cô không còn có thể nói thêm gì nữa.
Xác con hoàng yến trên bàn đã nói lên tất cả mọi điều


Jennifer Parker không chỉ xuất hiện trên tin tức buổi tối. Cô chính là tòan bộ tin tức.
Câu chuyện cô chuyển một con hoàng yến chết cho nhân chứng chính của chưởng lý có sức hấp dẫn không ai cưỡng lại được. Tất cả các kênh vô tuyến đều đưa hình ảnh Jennifer rời khỏi căn phòng của chánh án Waldrnan, khó khăn lách ra khỏi đám phóng viên và dân chúng vây lấy cô.
Jennifer không thể tưởng tượng được sự chú ý đáng sợ của dư luận đối với mình. Họ vây quanh cô tứ phía: Phóng viên của tivi, đài phát thanh và các nhà báo. Cô chỉ mong thoát khỏi họ càng nhanh càng tốt, nhưng lòng tự trọng buộc cô phải dừng lại.
- Ai đã đưa cho cô con hoàng yến, cô Parker?
- Cô đã gặp Michael Moretti bao giờ chưa?
- Cô có biết rằng Di Silva định dùng vụ án này để lọt vào văn phòng thống đốc bang không?
- Chưởng lý nói ông ta sẽ làm cho cô mất việc. Cô có chống lạì việc đó không?
Đối với từng câu hỏi, Jennifer chỉ mím môi trả lời ngắn gọn:
- Tôi không có ý kiến gì hết.
Trên chương trình tin tức buổi tối của hãng CBS người ta gọi cô là "Parker đi sai đường". Một phát thanh viên vô tuyến của hãng ABC đặt cho cô cái tên "chú hoàng yến". Trên kênh của hãng NBC, một nhà bình luận thể thao so sánh cô với Roy Riegels, một cầu thủ bóng đá đưa bóng vào lưới nhà từ cự li rất gần gôn.
***
Tại một khách sạn thuộc quyền sở hữu của Michael Moretti, có một bữa tiệc đang diễn ra. Có hơn một chục người trong phòng uống rượu và cười nói ồn ào.
Michael Moretti ngồi trầm ngâm một mình trước quầy rượu chăm chú theo dõi Jennifer Parker trên tivi. Anh ta nâng chén rượu lên chào cô và uống cạn.
Luật sư khắp nơi bàn tán về trường hợp Jennifer Parker. Một nửa trong số họ tin rằng cô ta đã bị mafia mua chuộc, nửa khác nghĩ rằng cô ta đã bị lừa vì quá ngây thơ. Tuy nhiên, dù ở phía nào đi nữa họ đều nhất trí một điểm: sự nghiệp ngắn ngủi của Jennifer Parker với tư cách là một luật gia đã chấm dứt.
Cô mới chỉ hành nghề có đúng 4 giờ đồng hồ.
***
Cô sinh ra ở Kelso, bang Washington, một thị trấn nhỏ được xây dựng vào năm 1947. Người lập nên thị trấn này, một nhà buôn gỗ người Scotland, đã dùng tên của quê mình để dặt cho thị trấn.
Cha của Jennifer là một luật sư. Đầu tiên ông làm việc cho các công ty gỗ, sau đó cho các công nhân ở xưởng cưa. Những ký ức về thời thơ ấu của Jennifer tràn đầy kỷ niệm vui vẻ.
Bang Washington là một nơi đẹp như tranh đối với cô bé, có những dãy núi kỳ thú, nơi trượt tuyết và các công viên quốc gia. Cô được trượt tuyết, bơi thuyền và khi lớn lên chút nữa được leo núi. Jennifer học leo núi ở đỉnh Rainier và trượt tuyết ở Timberline với cha cô.
Cha Jennifer luôn dành thời gian để chơi với cô. Trong khi đó mẹ cô, một người đàn bà đẹp và luôn bận rộn, rất ít khi có mặt ở nhà. Jennifer rất yêu cha. Ông Abner Parker là một người có dòng máu pha trộn giữa Anh, Irland và Scotland. Ông người tầm thước, tóc đen và mắt xanh lá cây, một người cực kỳ tốt bụng và công bằng. Ông không quan tâm tới tiền bạc mà quan tâm đến con người.. Ông thường ngồi nói chuyện với Jennifer hàng tiếng đồng hồ về các vụ kiện mà ông xét xử và những vấn đề mà mọi người đều trình bày với ông, tại văn phòng luật sư khiêm tốn và bé nhỏ. Mãi về sau, Jennifer vẫn không biết rằng ông nói chuyện với cô, vì ông không còn ai khác để chia sẻ những tình cảm của mình. Sau giờ học Jennifer thường chạy vội đến tòa án để xem cha mình làm việc. Nếu tòa án không có vụ xử kiện nào, cô thường đi xem văn phòng của cha, nghe ông tranh luận với các khách hàng của mình về các vụ kiện. Mọi người coi việc Jennifer sẽ học ở trường luật là điều đương nhiên.
Năm Jennifer 15 tuổi, cô bắt đầu làm việc cho cha vào kỳ nghỉ hè. Vào lứa tuổi khi các cô gái khác còn mải mê hẹn hò với bạn trai, Jennifer đã vùi đầu vào nghìên cứu các vụ kiện và chúc thư.
Các chàng trai rất thích cô, nhưng Jennifer ít khi đi chơi với họ. Khi cha cô thắc mắc điều đó, cô trả lời:
- Tất cả bọn họ đều còn quá trẻ, ba ạ.
Cô biết rằng một ngày kia cô sẽ lấy một luật sư giống như cha cô.
Đúng vào ngày sinh nhật thứ mười sáu của Jennifer, mẹ cô bỏ nhà ra đi cùng với cậu con trai 18 tuổi của nhà láng giềng, và cha Jennifer chết dần từ dạo đó. Bẩy năm sau trái tim ông mới ngừng đập, nhưng ông đã chết từ khi ông nghe tin về vợ mình. Cả thị trấn biết việc đó và họ rất thông cảm với ông. Điều này lại làm cho ông càng đau buồn, vì Abner Parker là một người đàn ông giầu lòng tự trọng. Ông quay ra rượu chè. Jennifer làm mọi điều cố thể để an ủi ông, nhưng cũng chẳng có ích gì. Mọi cái không thể trở lại như cũ được nữa.
Năm sau, Jennifer đến tuổi vào đại học nhưng cô muốn ở nhà với cha. Tất nhiên cha cô không đồng ý.
- Chúng ta sẽ thành đồng nghiệp, Jennifer ạ. - Ông bảo cô - Hãy học nhanh lên để lấy bằng con ạ.
***
Sau khi tốt nghiệp phổ thông, cô đăng ký học luật tại trường tổng hợp Washington ở thành phố Seattle.
Trong năm thứ nhất, khi các bạn cùng lớp bù đầu với những hợp đồng, chúc thư, bất động sản và các thủ tục kiện tụng của luật hình sự, thì Jennifer cảm thấy tự nhiên như ở nhà. Cô sống trong khu nội trú trường và làm cho thư viện luật của trường.
Jennifer yêu thích Seattle. Vào chủ nhật, cô thường cùng với một sinh viên Ấn Độ tên là Ammini William và một cô gái Irland to xương với tên gọi Josephine Collins, đi bơi thuyền trên hồ xanh ở trung tâm thành phố, hoặc tham gia vào các cuộc đua giành cúp vàng trên hồ Washington.
Có rất nhiều câu lạc bộ nhạc jazz hay ở Seattle và Jennifer thích nhất câu lạc bộ Poop Deck, ở đó người ta ngồi trên những thùng gỗ thay cho bàn ghế.
Vào buổi chiều Jennifer, Ammini và Josephine thường gặp nhau ở quán Hastv Tasty, nơi có món khoai tây rán ngon nhất thế giới.
Có hai chàng trai theo đuổi Jennifer. Một sinh viên trường y: trẻ, đẹp trai tên là Noal Larkin và một sinh viên luật tên là Ben Munro. Thỉnh thoảng Jennifer cũng đi chơi với họ, nhưng cô quá bận để có thời giờ nghĩ tới một chuyện tình nghiêm chỉnh.
Mùa hè nào, Jennifer cũng về nhà thăm cha. Ông đã thay đổi rất nhiều. Ông không bao giờ say nhưng cũng chẳng có lúc nào tỉnh táo cả. Ông đã ẩn vào một pháo đài tình cảm và không ai có thể hiểu được ông nữa.
Ông mất vào lúc Jennifer đang học năm cuối ở trường luật. Mọi người vẫn nhớ đến ông và có gần một trăm người tham dự đám tang Abner Parker, những người mà lúc sinh thời ông đã giúp đỡ, khuyên bảo và kết bạn. Jennifer không chỉ mất đi một người cha. Cô còn mất cả một người thầy và một người bảo trợ nữa.
***
Sau đám tang, Jennifer trở lại Seattle để học nốt năm cuối. Cha cô chỉ để lại cho cô gần 1000 đôla và cô phải quyết định sẽ làm gì trong tương lai. Cô biết rằng mình sẽ không thể hành nghề luật sư ở Kelso, vì ở đó người ta vẫn coi cô là một cô bé đáng thương có người mẹ bỏ nhà theo trai.
Do tốt nghiệp với kết quả cao, Jennifer đã được hàng chục hãng luật hàng đầu trong cả nước phỏng vấn và cô nhận được một số lời mời đến làm việc. Warren Oakes, giáo sư về luật hình sự của trường bảo cô:
- Đó quả là một cống vật thật sự, cô gái trẻ ạ. Thường thì một phụ nữ rất khó có thể tìm được chỗ làm việc trong một công ty luật có uy tín.
Khó khăn của Jennifer lúc này là cô không có một chỗ trú chân ổn định. Cô cũng chưa rõ mình sẽ sống ở đâu. Ngay trước khi cô tốt nghiệp, tình cờ khó khăn ấy đã được giải quyết. Giáo sư Oakes yêu cầu cô gặp ông sau giờ học.
- Tôi vừa nhận được một lá thư từ văn phòng chưởng lý quận Manhattan. Ông ta yêu cầu tôi giới thiệu một học sinh xuất sắc nhất về làm trợ lý. Cô có thích làm ở đó không?
Làm việc ở New York? Jennifer quá vui sướng và câu trả lời hầu như được bật ra ngay tức khắc:
- Có ạ, thưa thầy!
Cô bay đến New York để dự kỳ thi sát hạch và trở lại Kelso để đóng cửa văn phòng luật của cha cô. Đây là một công việc vừa cay đắng vừa ngọt ngào, tràn đầy những kỷ niệm của quá khứ, và Jennifer có cảm giác rằng cô đã lớn lên ở trong chính văn phòng này.
Cô kiếm việc làm ở thư viện luật của trường tổng hợp để sống qua ngày, trong khi chờ đợi kết quả của cuộc thi sát hạch ở New York.
- Đó là một trong những kỳ thi khó nhất trong cả nước đấy! - Giáo sư Oakes nhắc nhở cô.
Nhưng Jennifer biết rằng mình sẽ đỗ.
Cũng ngày hôm đó, cô nhận được thông báo về việc đã đỗ kỳ thi sát hạch và một giấy mời đến làm việc của văn phòng chưởng lý ở New York.
Một tuần sau đó, Jennifer đến New York.
Cô thuê một căn hộ nhỏ ở cuối đại lộ số Ba. Căn hộ này năm ở tầng tư của một tòa nhà không có lò sưởi. Tập thể dục sẽ có lợi cho sức khoẻ của mình, Jennifer tự nhủ. Căn hộ này có một phòng ngủ bé xíu, trong đó có một chiếc đi văng có thể biến thành giường ngủ, một buồng tắm nhỏ có cửa sổ được chốt chặt. Đồ đạc trong phòng cực kỳ tồi tàn. Không sao, ta sẽ không sống ở đây lâu đâu mà, Jennifer nghĩ. Ta sẽ chỉ sống ở đây chừng nào ta chưa chứng tỏ được mình là một luật sư giỏi. Tất cả những cái đó chỉ là một giấc mơ. Thực tế là cô chỉ ở New York có gần 72 giờ đồng hồ. sau đó cô đã bị đuổi khỏi đội quân của chưởng lý và còn bị đe doạ tước quyền luật sư.
Jennifer bỏ đọc báo và tạp chí, ngừng xem vô tuyến bởi bất cứ lúc nào đụng đến chúng, cô đều thấy mình trong đó. Cô cảm thấy mọi người đều chú ý đến mình, trên đường phố, trên ôtô bus và ở ngoài chợ nữa. Cô bắt đầu ở lỳ trong nhà, không trả lời điện thoại hoặc ra mở cửa khi có chuông reo. Cô đã định thu dọn đồ đạc và trở lại bang Washington. Cô còn định tìm việc thuộc các lĩnh vực khác. Cô đã nghĩ đến việc tự tử. Cô dành hàng tiếng đồng hồ ngồi viết thư cho chưởng lý Robert Di Silva. Một nửa số thư buộc tội ông kém nhạy cảm và thiếu sự thông cảm. Một nửa khác gồm tòan những lời xin lỗi và cầu xin ông cho cô có cơ hội làm lại cuộc đời. Kết cục không có bức thư nào được gửi đi cả.
Lần đầu tiên trong đời, Jennifer chìm đắm trong tuyệt vọng. Cô không có bạn bè ở New York, không có ai để tâm sự cả. Cô tự nhốt mình trong phòng suốt ngày và đến khuya mới dám đi ra dạo trên các đường phố vắng lặng của thành phố. Những ngôi nhà vắng lặng, chủ nhân của đêm tối, không bao giờ bám lẵng nhẵng theo cô. Có lẽ chúng thấy nỗi cô đơn và tuyệt vọng của mình trong cặp mắt cô.



***Xem trang:
[1][2][3][4][5][6][7][8][9][10][11][12][13][14][15][16][17][18][19][20]
[21][22][23][24][25][26][27][28][29][30][31][32][33][34][35][36][37][38]

TOP WAP WORLDWIDE


mobiV trang ch

© GIAITRI102.TK
Thanks to XTGEM